* Chương 3: Đánh Tư Sản
***
Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy
“tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải
tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận
thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất
yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy
ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh
nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố
Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có
chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú
Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy;
Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…” (117).
Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu
mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.
Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách
“tư sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu
về “Chính sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn,
trong đó có phần ánh giá vai trò lũng đoạn thị trường của các “vua”
người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ
sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong “hợp đồng tác chiến”, tin
tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya ngày 9-9-1975.
Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp át các
mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp lực
về dư luận (118).
Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch”
nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”.
Tài liệu đã dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản
mại bản đối phó chủ yếu bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân
thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên
ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền bạc, hột xoàn” (119).
Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh”
của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy
vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu
tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả
một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi
ngày” (120) ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem
ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải
khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản
đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.
Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày
10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư
Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh
đạo Quân quản nhưNguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho
rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản
nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.
Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1
ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục
xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số
chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn
nữa trong nhà chúng để truy vàngbạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần
chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”.
Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính
quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất
là thị trường bột ngọt (121).
Đổi tiền
Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập
rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực
lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công
của ta” (122). Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày
22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng
tiền mới.
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu
mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ
tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị
trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián
điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát” (123). Với nhận thức tiền còn là “phương
tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chínhphủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.
Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn
cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới
Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể
được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp,
vận tải được đổi100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ
100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số
còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các
hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiềnhơn mức được đổi ngay thì
phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ
tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư
lệnh thành huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất
cả được đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao
nhiệm vụ gì. Họ phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người
và từ đó, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập
huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được
triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.
Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất.
Tuy nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài
liệu xuống tận các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi
lại phải kê khai và xét duyệt mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai,
đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975 vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban
thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian đăng ký kê khai tới 21
giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu quan trọng
nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975,
các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình
hình phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý do: hai
ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một
hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp… Trong tình
hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư sản
nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại bàn” (124).
Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông
báo đổi tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm
ngày sau, Chính phủ đã phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có
sỹ quan từ trại cải tạo đã được đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi
giấu tiền.
Quyết định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30
năm sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sài Gòn” (125). Đồng tiền Sài Gòn
bắt đầu được phát hành ngày 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho
nhiều tội lỗi (126). Ba ngày sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền
Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ
sở, nhận dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng
Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất
nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang” (127).
Không biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất
nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.
Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ
mà chưa đăng ký thì coi như hết giá trị. Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông
Phạm Văn Tư chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, Bình
Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn lại. Du kích
cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một
bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.
Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa (128), năm ấy
lên tám tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà. Do thường xuyên cần
tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền
mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ
bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao
vây nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau,
những bao tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.
Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị
trấn Sông Mao, nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương
bắt đầu quản lý trại cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký,
mua lại trại cưa này năm 1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu
rừng, dân kinh doanh liên quan đến gỗ phải đi dây để không làm mất lòng
hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn Sông Mao trở nên nhộn nhịp
khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, công
việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.
Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung
Quốc năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ
một sản nghiệp đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi
đến thế nào vớibảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt
Cộng mà ông Tư gặp trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn
pin, đá lửa, thuốc ký ninh, họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục
làm ăn như cũ. Khi những người có máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan
Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại. Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập
vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong nhà ông và tuyên bố quản lý
xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là tài sản của ông đang
bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang xuống xưởng một
ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ chặn
lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông
không được đến đây nữa” (129). Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông
từ từ méo đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như
phát điên. Cô em vợ nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa
ruộng, nhìn thấy anh rể mình cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết
một mình lặng lẽ khóc.
Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn
Tri Phương Trần Kiêm Đoàn (130) được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn
trường Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội.
Trước khi đi, Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày,
sẵn sàng chiến đấu”.
Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi
dậy? Tới 3 giờ sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn
trẻ, hào hứng với những cái mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị
bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu
đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”. Nhưng, tới trưa, theo ông
Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất vọng. Ba giờ chiều,
tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng tròng: Anh!
Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền
Sài Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười triệu. Không
chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của
ông, cũng đang kêu khóc.
Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi
chiến tranh kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông
Đoàn kể: “Tôi trở về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết
chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5.
Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về lấy tiền và móc nối với
mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được thật”.
Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh
viễn 16ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông
báo việc “rút tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới
một triệu có thể rút dần tiền về, số trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút
là 10 nghìn đồng/tháng”, còn những trương mục trên hai triệu “sẽ được
ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.
Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9- 1975.
Cũng trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu
không còn giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù
của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu
vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và
bè lũ đã mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản
lý tài sản của toàn dân, không lý gì và không có quyền lấy tiền nhân dân
trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu” (131).
Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ
lấy kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương
binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền. Nếu
như “đánh tư sản mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi
tiền và chính sách mới về số tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan
đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những người như ông Đoàn hiểu thêm về
con người trong chế độ mới.
“Gian thương”
Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột
ngọt, tăng vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối
các phương tiện truyền thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư
bản”. Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt
đã làm cho đồng bào nhận rõ bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.
Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá
bảy mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một
viên đá lửa đỏ, giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến
sáu mươi đồng; giá một chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100
đồng; một bộ vỏ, ruột xe Hondatăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày
30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975
đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.
Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”,
khẳng định: Nói bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một
“luận điệu tuyên truyền ác ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác
ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận: “Bọn gian thương chứ không ai hết.
Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao động như thế quen rồi”. Cũng
theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong bài báo này thì,
“tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân dân”. Ở
các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới
“hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.
Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam,
đăng trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại
bản (132). Để phân biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam
Lộc, ủy viên Tuyên-Văn- Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở
đây ta không đi sâu vào giải thích danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc
đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa có lợi cho họ vừa có lợi
cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của ngoại bang
hay tay sai của ngoại bang” (133).
Khi bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư
sản mại bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm
tù, tịch thu toàn bộ tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy
viên Công tố Nguyễn Hoàn kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy]
gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập
Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ
đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu tư khai thác mỏ dầu ở thêm
lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như một tên xâm lược Mỹ
với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam để duy trì
chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ về mưu đồ
của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân
dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã
nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc
lột của y phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới” (134).
Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư
sản mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm
mưu xảo quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn
thành chỗ dựa của ngụy quyền”(135). Tiến trình cơ giới hóa của nền nông
nghiệp miền Nam được Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua
viện trợ Mỹ về nông nghiệp, chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả
tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra khỏi ảnh hưởng của Cách
mạng” (136). Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù, “với bản chất
ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để che lấp
phần nào tội trạng của y” (137), nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa
viên nhân dân đều bị “tòa bác bỏ”.
Những “tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương
Dĩ Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều
lần lượtlãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua
Marx-Lenin, chưa được trang bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy
giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao động”, để hiểu vì sao một
người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu sâu
xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính quyền Sài Gòn
bắt lính”.
Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ
bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành
việc đánh tư sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại
dân, hại nước” (138).
Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào
mà chủ yếu căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai
Chí Thọ: “Trong giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền
nhà giàu cho nhà nghèo” (139).
Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại
bản đầu sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và
một tự sát” (140). Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn
miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền
miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trongđó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121
đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng;
hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167
thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60
nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500
tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao
ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24
tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000
con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000
USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp
hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt” (141).
Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được
tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày
10-9-1976, vợ chồng nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt
“trong lúc đang dồn tiền và của quý vào 8 va li để chạy trốn”. Sáng sớm
hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng quân đội , an ninh võ trang
đã bắt giữ nhiều tên tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá
rối thị trường” như Lý Hơn, Lâm Huê Hồ , Dương Hả i, Trang Triṇ h
Nguyên, Mã Tuyên, Trầ n Thanh Hà , Trầ n Liệt Hồng, Lý Hấn. Ngay sau
khi bắt giữ các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng
về mặt dư luận.
Sáng 11-9-1976, hàng ngàn ngườ i Hoa tại Chợ Lớ n đã được chính
quyền huy động cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm
phẫn tố cáo tội ác của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ
bài trừ tận gốc”. Tối cùng ngày, gầm ba mươi cuộc mít tinh đã được tổ
chức ở nhiều nơi trong thành phố.
Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.
Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại
bản Hoa kiề u cà ng già u bao nhiêu thì chúng tôi càng cơ cực bấ y
nhiêu. Phải trừ hế t bọn nà y, ngườ i Hoa mớ i có thể sống yên ổn và
hạnh phúc”. Họ đòi “chánh quyền cách mạng nghiêm khắc trừng tri
̣bọn tư sản mại bản luñg đoạn , đầu cơ tích trữ , phá rối thi
̣trường, làm giàu trên xương máu nhân dân” (142). Những hoạt động quần
chúng này, không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư
luận cho một chính sách mới sắp sửa ban hành.
“Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”,
trong kỳ họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ cở hoàn toàn toàn thành bản báo
cáo chính trị của đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam”, Quốc hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Hoàn thành thống nhất nước nhà , đưa cả nướ c tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội . Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiêp̣ xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ; miền Nam đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ” (143).
Ngà y 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của
Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam”. Theo tuyên bố này: “Chính
phủ chủ trương xây dựng nền kinh tế xã hôị chủ nghĩa trong cả nướ c ta
và tổ chứ c cho nền kinh tế ấy thống nhất trong cả nước; xóa bỏ dần dần những sự khác biệt của mỗi miền: tạo ra những cơ sở kinh tế
cơ bản cho nền kinh tế độc lập̣ , không bi ̣phụ thuôc̣ vào nước
ngoà i; tổ chức lại lao động và tạo ra môṭ sự phân phối mớ i công bằng, bảo đảm đời sống nhân dân, nhất là nhân dân lao động; xóa bỏ
mọi bất công trong xã hội và lối làm ăn gian dối, phi pháp”.
Cho dù đòi “xóa bỏ tư sản mại bản và những tàn dư bóc lột phong
kiến” ở miền Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử
dụng những nhà tư sản có vốn liế ng, có kỹ thuâṭ , nhữ ng người là m
ăn riêng lẻ , cả nhữ ng người buôn bán nhỏ ”. Thời gian đầu, các nhà tư
sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định
nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư hợp doanh (144).
Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản và tư
nhân được kinh doanh” (145) rất hạn chế.
Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều
phải “do nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm”. Nhà
nước bắt đầu độc quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên
liệu quan trọng trong nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu”. Nhà
nướ c sẽ “nắm hầu hết xuất nhập̣ khẩu và cả bán buôn trong nước”.
Những tư nhân làm thương nghiệp̣ “sẽ được chọn lọc và sử dụng một phần làm đại lý cho mậu dịch quốc doanh; còn những người khác,
nhà nước sẽ giúp đỡ chuyển sang sản xuất”. Bản tuyên bố viết: “Dưới
chế độ ta, thành phần kinh tế quốc doanh giữ địa vi ̣lãnh đạo . Đố i
với công thương nghiêp̣ tư bản tư doanh, kinh tế quốc doanh có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ … đi dần từng bước lên chủ nghıã xã hội
thông qua con đường cải tạo ”.
Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang
của Tổ quốc, cá c nhà tư bản tư doanh hãy nhận rõ nhiêṃ vụ lic̣h sử
lúc này, nhận rõ con đường phát triển tất yếu của dân tộc ta,
nhận rõ tiền đề xán lạn của Tổ quốc Việt Nam, mà tiếp thu tốt sự cải tạo xã hội chủ nghĩa ”. Đồng thời tuyên bố khuyến cáo: “Cùng với
nhân dân lao động đi lên theo con đường ấy, các nhà tư bản sẽ có cơ
hôị tự cả i tạo mình trở thành người đứng trong hàng ngũ đại gia
đình dân tộc Việt Nam. Đó là con đường mở ra một tương lai tốt đẹp
cho bản thân mình và cho con cháu”.
Mãi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội
trường Thống Nhất, Chính quyền mới tổ chức Hôị nghi ̣Liên tic̣h Ủy
ban Mặt trận và các đoàn thể cấp trung ương và thành phố để phổ biến
bản tuyên bố ngày 25-9-1976. Không phải là những người cộng sản từ Hà
Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm: Luâṭ sư Nguyễn Hữu Thọ, khi ấy là
phó chủ tịch nước kiêm chủ tic̣h Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân
tôc̣ Giải phóng Miền Nam Việt Nam; Hoàng Quốc Viêṭ , chủ tic̣h Tổng Công đoàn Viêṭ Nam; Luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tic̣h Ủy ban
Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tôc̣ , Dân chủ và Hòa bình
Viêṭ Nam; Hòa thượng Thích Minh Nguyêṭ … Trưởng ban Cải tạo Công
thương nghiệp̣ tư doanh Trung ương, ông Nguyễn Văn Trân, bí thư Trung
ương Đảng, người được bổ sung vào Trung ương Cục trước khi Sài Gòn sụp
đổ, cũng có mặt trong hội nghị.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp
tình hợp lý đối với các nhà công thương nghiêp̣ tư bản tư doanh, giúp
cho họ thấ y rõ hơn con đường tiến lên của Cách maṇ g và taọ cho họ
điề u kiện đóng góp công sức cùng với toàn dân xây dựng Tổ quốc
Viêṭ Nam giàu mạnh, văn minh và haṇh phúc, trong đó có quyền lợi
chính đáng của họ và của con cháu họ”. Còn Trưởng ban Cải tạo Nguyễn
Văn Trân thì ngắn gọn: “Bản tuyên bố của Chính phủ đã mở ra một tương
lai tốt đẹp̣ , một tiền đề xán lạn cho các nhà tư sản công thương
nghiêp̣ ” (146).
Từ ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công
thương nghiêp̣ và dich vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “cá c đơn
vi ̣và hộ sản xuất kinh doanh, dic̣h vụ”̣ đã khai trình và 93% số
hộ này đã được chính quyền cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng
ký kinh doanh”. “Nhiều người khai trình đúng đắ n (nhưng) cuñg còn
khá nhiều người, nhứt là các hộ kinh doanh lớn đều khai trình
thiếu, sai biệt xa với tài sản họ có thật . Một số người tìm mọi
cách phân tán tài sản nhiều nơi, thâṃ chí có người dùng xe chở hàng tẩu tán sang quận khác đã bi ̣bắt quả tang cả người lẫn hàng.
Có người gây cản trở , vu khống cán bộ đi thẩm tra hay dùng thủ
đoạn mua chuộc cán bộ, tráo hàng xấu vào hàng tốt” (147).
Chính quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo
rằng: “Những hộ nào đã được chánh quyền kêu goị , giáo duc̣ lợi ích
chung xây dựng đất nước mà … vẫn còn tiếp tuc̣ nhiều lần nhưng
không thấy có thái độ chống đối, giấu diếm, phân tán, không chiụ
khai trình bổ sung là tự mình tách khỏi hàng ngũ những nhà công
thương chấp hà nh đúng chánh sách của Nhà nướ c và bi ̣coi là bất
hợp pháp” (148).
Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấp giấy chứng nhâṇ đã
đăng ký kinh doanh và vẫn hoaṭ đôṇ g gần như bıǹh thường. Nhưng kể từ
đây, ranh giới của một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị
trường, phá hoại chủ trương” bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với
một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân”. Một
trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt hơn là ngành
giao thông vận tải.
Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên
doanh vận tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận
tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các
tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có
lòng yêu nước, có cảm tình với Cáchmạng, nhiều người đã là cơ sở tốt
nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào thành phố, ủng hộ vật
chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời kêu gọi của
Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng trăm
xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích
địch ởphía Nam” (149). Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ
giữ được nghề nghiệp và xe cộ.
Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị:
“Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải
tư doanh ở miền Nam đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp” (150).
Một thứ trưởng của Bộ Giao thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ,
kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ
là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống nhất quản lý.
Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua,
trưng thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân (151). Nói
là mua và trưngmua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực
tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả
dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết
vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng
không đủ mua chiếc xích lô” (152).
Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến
miền Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và
cuối tuần thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật
trong những chuổi ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy
nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo
âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không
an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi
chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng
dầu, bơm vá” (154).
Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh
doanh trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được
một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng (155). Nếu thời cuộc không thay
đổi, công việc kinh doanh thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một
hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho
Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của
công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai không biết lái xe
thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng
trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua được
vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe
xin mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa
mắng mỏ mỗi khi trái ý” (156).
“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”
Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có
nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh.
Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một
chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một
chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.
Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của
Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp,
bằng hoạt động đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt
đã lũng đoạn kinh tế và thị trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối
việc thu mua của nhà nước, gây cảnh hỗn loạn thị trường để làm giàu bất
chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để gạt gẫm và bóc lột người
tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của xí nghiệp, kho
tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục khoét kinh
tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cánbộ
nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ” (157). Cơ sở pháp lý của
đợt “cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết
định số 100 CP ngày12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xã hội
chủ nghĩa” theo hướng “chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư
sản, chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất”.
Trước đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn
VănLinh gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát
biểu ý kiến, đã “hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh”. Thậm chí có những ý kiến đã “nói lên những tồn tại của
giới công thương”, chỉ trích “một số nhà công thương còn theo lối kinh
doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của chính quyền cách mạng”. Lần
ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có tình, có lý củađảng và nhà
nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà công thương… ra sức cải
tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của mình để tham gia
xây dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội” (158). Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp nói
chuyện” một cách đầy đủ hơn về chính sách cải tạo.
Nhưng bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải
tạo của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh
đang nắm giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày
16-2-1978, sau khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười
đưa quân tập kết vào Sài Gòn để bắt đầu kế hoạch.
Sáng 23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những
cửa tiệm, lớn có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm
trọng. Họ chỉ chờ chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng
hóa và bắt đầu chốt giữ. Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã
được Thành đoàn huy động: sinh viên các trường đại học thì nghỉ học,
công nhân trong các nhà máy thì nghỉ làm, những người chưa có công ăn
việc làm thì được phường trưng dụng.
Cũng trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của
Ủy Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của
chính sách cải tạo: Đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của
tư nhân; ra lệnhkiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề
buôn bán và “khuyến khích” họ chuyển sang sản xuất (159).
Người ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệu (160), thừa nhận: “Quyết định
được ký nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt
là Trung ương đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng
có Ban Cải tạo nhưng từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được
ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau
xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn.
Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở thành cuộc chiến trên diện
rộng” (161).
Theo ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt
đầu chiến dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân
vận rồi đưa anh Đỗ Mười vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương
nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười vào Sài Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở
miền Bắc trong năm 1960”. Theo ông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản
ở Hải Phòng, Đỗ Mười cũng cho xóa sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là
thoạt đầu ông đã cùng ông Đỗ Mười vào Nhà khách Trung ương tại Sài Gòn
(T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sau thấy Đỗ Mười đánh cả
tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng nói: “Tôi
theo anh, tôi sa lầy”.
Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít
khi xuất hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà
ông tiến hành thì cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó (162).
Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công
“phát động giai cấp công nhân tham gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh”
xong ngành nào thì các ngành tương ứng từ Trung ương – phần đã vào từ
trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười – lập tức nhảy vào tiếp quản. Ví dụ
Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản các cơ
sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thì
tiếp quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao
động của Trần Quốc Bửu.
Ông Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết
sức phấn khởi vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp
công nhân, coi như đó là một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần
nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra
phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi khi có lệnh là lên xe đến ‘chốt’
nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng khác đã xộc vào các cửa
hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh chống các hành vi
xấu”.
Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn, đúng mực, nhưng
rất cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số vụ mua
chuộc xấu xacủa giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những
phát hiện các hộ tư sản thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất
giấu, mà còn cương quyết từ chối và đấu tranh chống lại hành động hối lộ
của một số hộ tư sản” (163).
Một nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông
báo cho toàn quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối
ngày 26-3-1978 ngay tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân
cũng được phát động để “kịp thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố
giác, chống những hành vi xấu như hối lộ, tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền
xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức thời” (164).
Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức
thăm dò. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận
5, ông Mai Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải
tạo đã khóa cửa bỏ đi, cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê
tài sản”. Ông Mai Chí Thọ suynghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả
cửa ra vào, cho một tổ chốt trước nhà những người đi vắng. Thông báo cho
họ một thời hạn, nếu không tự giác thì các đồng chí cứ cho phá cửa vào
lập biên bản” (165). Trừ một số trốn đi luôn, phần lớn đã trở về chịu để
chính quyền kê biên tài sản.
Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong
bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung
thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba
ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét
tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng,
trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng,
chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng
không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.
Những năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội
trở thành đối tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là
quần chúng,được đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa
bị đánh vào rạng sáng ngày 10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có
“1.200 nhà tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường”
tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ
tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường” (166).
Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh
sách và tội trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc
một xí nghiệp tại Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo
ông nên tịch thu toàn bộ tài sản của bọn gian thương, đem xử công khai
trước nhân dân và cho bọn này đi cải tạo lao động lâu dài để chúng biết
giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ này khi ấy chắc không ngờ
có ngày mình cũng trở thành đối tượng của “nhân dân lao động”.
Hai gia đình tư sản
Tuy không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức
“đấu tranh giai cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm
tương đồng. Ngay từ tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư
sản mại bản” bằng chính tiếng nói của con cái các nhà tư sản.
Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12,
trường Lý Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của chính phủ là
đánh bọn gian thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư
sản mại bản đầu cơ tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân
dân, là kẻ thù của nhân dân”. ÔnĐường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú,
thì cho rằng: “Chúng ta phải phát động quần chúng đứng lên tiêu diệt bọn
gian thương”. Còn Lý Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lý Phong, thì nói:
“Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền cách
mạng để xây dựng kinh tế thì đó là điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư
sản mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân dân” (167).
Năm 1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người
Hoa, vừa trở thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà,
chỉ cho họ những tài sản mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi
trên báo chí: “Hai năm qua đất nước ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã
hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ đã hòa mình trong ngọn lửa triều
thời đại ấy” (168). Chính Lý Mỹ cũng viết trên trangđầu tiên của nhật ký:
“Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua những dòng ghi chép của
cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc (169).
Lý Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn (170), đọc
Pavel Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải
luận điểm của Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về
một xã hội tốt đẹp, một bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng
6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu, Lý Mỹ đã phải “nuốt nước mắt” để
thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những gì cô được Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ
nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia đình Lý Mỹ khi ấy
có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng Tám. Khi Nhà
nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là học sinh lớp
12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên
đóng chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý Mỹ viết:
“Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở
nên dễ chịu hơn khi những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ
ngày hôm nay – ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn”.
Trong những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng phút để vận động
gia đình kê khai tài sản”. Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời
nói, hành động của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình bị kê
biên, Lý Mỹ đã không giấu được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ
đi ngủ để mình làm công việc kê khai cùng với toán công tác đang chốt
tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ khuya – không phải để thao
thức, trăn trở trong sự khổ sở – mà để sao bốn bản kê khai trong một sự
vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết mình được
đứng vào hàng ngũ của Đoàn” (171).
Cuốn Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã
yên tâm rồi. Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt
quá khứ từ ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn
mặc cảm với bạn bè, nhân dân lao động vì gia đình mình không còn sống
bằng nghề bất chính. Mình đã đấu tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước
mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát, hãy tiến lên. Không có gì có thể
ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại phấn khởi rồi, vui quá!”.
Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽ khoét vào lòng cô
một như vết thương – một vết thương không bao giờ có khả năng khép lại.
Cho dù được báo Nhân Dân (172) ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong
cả nước viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ
cũng chỉ là một sản phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư
sản khác, trong những ngày ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha
mẹ bảo vệ tài sản gia đình trước nguy cơ cải tạo. Gia đình ông Võ Quang
Trữ, một trong những người giàu có ở Sài Gòn lúc bấy giờ, là một ví dụ.
Năm 1960, ông Trữ đưa gia đình di cư từ Quảng Nam vô Sài Gòn. Thời gian
đầu, chồng làm thư ký cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy
Hiền còn rất hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng
một số người di cư bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là
dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ
nhanh chóng trở thành những người giàu nhất.
Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ đã chở
con bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy
gần một trăm lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào
hứng này của ông không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông
thấy, tấm biển “trụ sở công an phường” tự nhiên được treo lên trước một
ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi ông đi vắng, mấy người “Cách mạng
30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng trệt làm trụ sở công
an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.
Sau Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ
đi trước một bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình
“hiến” cho Nhà nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp
doanh” (173), rồi nhận chức phó giám đốc trong nhà máy của mình theo sự
phân công. Một số lớn máy móc và tiền bạc khác được ông Trữ đưa về quê,
xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi hiến cho Đà Nẵng.
Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt trước
tiền sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ
ở đó hai đợt, tổng cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ,
sinh năm 1964, kể: “Hàng ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng
thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu
ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông Trữ giấu ở đâu. Gần như
không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy lên. Nhưng những
mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đình Cách mạng đã dùng để qua mặt
cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp dụng
một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.
Ngay từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975,
một toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường
Kiệt của ông, bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị
tai nạn, nằm trên giường, chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an
và tên cướp cố thủ trong nhà cho đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau
đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà lên Bảy Hiền. Chính trong thời gian
xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông Trữ đã cho làm hai căn hầm bí
mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một ngay dưới bàn ăn gia
đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong những lon guygoz,
bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.
Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ
chồng ông Trữ và của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con –
đặc biệt là hai đứa trẻ: Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ Thị Anh Đào,
mười hai tuổi – ông Trữ bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông
mang lên khoảng năm mươi lượng vàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào
ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào, rồi để các con tự đi ra ngoài.
Võ Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những
đứa trẻ vô tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui
vẻ ra khỏi nhà, khi thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để
qua mặt tổ cải tạo đang đứng canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô,
khi thì taxi, khi thì một bác xe ôm đứngđón. Họ chở tôi đi một đường, em
gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến một địa điểm mà ba tôi
cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một người được ba
tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ sẵn, đón chúng tôi, nhận
hàng rồi đi ngay lập tức”.
Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong
suốt sáu tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ Quang Trữ trở thành
những người có vẻ ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không
thành trở về, gặp nhau ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa
đi đâu đó ngoài đường về. Mãi tới khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm
lấy các con và cả mấy cha con cùng bật khóc.
Kinh tế mới
Không chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời
thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy
giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công
bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải
Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu
được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính
sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.
Các nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi
phè phỡn, bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao
động và nói xấu chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao
động hồi hương lập nghiệp” (174). “Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân
lao động và chính quyền cách mạng đã không bắn giết, không bắt giam,
không đày ải, không đấu tố, không tịch thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và
lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và chính quyền chỉ buộc họ chấm
dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh viễn… Không những các
nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông nghiệp, nghề cá,
nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương” (175).
Hai ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo”
kéo dài hai ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí
thức” đã được chínhquyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo” 176, Bác sỹ
Lê Cửu Trường nói rằng: “Lề lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể
tiếp tục kéo dài trong một xã hội đang tiếnlên con đường xóa bỏ chế độ
người bóc lột người”. Ông Phương Kiến Khánh, người được giới thiệu là
đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng: “Chuyển cácnhà tư sản
thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức con người, là
giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.
Tối 17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức
đại biểu cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương
xóa bỏ kinh doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận
động Thống Nhất, Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai
đoạn đấu tranh giai cấp có phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp
tục” (177).
Ngày 10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành
phố đi sản xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các
chương trình kinh tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là
một chính sách lớn… nhằm giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con
đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng phi sản xuất gây tác hại cho xã
hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xã hội” (178). Không ít nhà tư
sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang sản xuất là để “tẩy rửa
cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như phát biểu của ông Vũ
Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng gia đình
đúng là đang “có phần gay gắt”.
Nhật ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô
“thật lạ và căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng
nói của ông làm cho cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc
biệt là tư sản người Hoa khác, gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là
nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không thể nào sống được”. Phần lớn các
nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký của Lý Mỹ viết: “Cùng gia đình
bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên, chấp nhận đấu tranh
và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đình không lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của
cải gì của cha mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng
chí Paven ơi, nỗi khổ và sự phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng
chí” (179).
Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản
sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam
chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải
tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư
sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi
tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con
buôn”.
Ngay trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh cãi nổ ra gần như
thường xuyên giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười.
Nhưng khi ấy Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ
Đình Liệu thừa nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có ý kiến, đi cơ sở
về chúng tôi cũng có ýkiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự” (180). Tuy tranh
cãi phương thức, nhưng cả ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống
nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu
tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi nhưđó là con đường để
đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông Âu,
thấy cuộc sống của họ so với mình đã là những gì mà mình ước mơ. Tôi
nghĩ, phải kinh qua những bước như mình đang làm bây giờ mới có ngày đạt
được như những gì họ có”. Nhưng rồi khi nhìn cả thành phố vốn là một
trung tâm thương mại trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nhìn thấy
chính những ân nhân của cách mạng cũng trở thành nạn nhân, những người
đã từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài Gòn bắt đầu nhìn lại những gì mà mình
đang thực hiện.
Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư
sản”, ông Trần Văn Đước – một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu mạng ông
Hải trong Mậu Thân 1968 – ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang.
Cũng như trong chiến tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì,
chỉ giúp đỡ vì biết ông Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn
Đước chạy đến báo: “Bác bị người ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”,
ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm lẫn”.
Con trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà
riêng ở số 12 Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn
mét, dài mười bốn mét, tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy
vào diện tư sản thương nghiệp, kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông
đều bị “sung công”. Không chỉ cótrường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957,
ông Lai Ninh đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn
đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùng gắt gao của Chính quyền Sài
Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười vào Nam, nhà máy xay lúa
của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công. Con gái ông, bà Lai Kim
Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo. “Công
cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành
từ sau 1975, đã cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong
đó có1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở
bị chuyển thành công tư hợp doanh; chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp
sang sản xuất; chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000
người vào mạng lướithương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới
dạng kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành
năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45% ngành xay xát lương thực; 100% ngành
bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45% trong các ngành chế biến đường,
dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản xuất giấy; 80% ngành sản
xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng
công nghiệp; 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua bán (181).
Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách
để tập trung mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các
xí nghiệp quốc doanh phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các
xí nghiệp tư bản, các hợp tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ
công, cá thể, được nhà nước cung cấp lương thực, máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn…(cũng) phải bán sản phẩm cho
thương nghiệp quốc doanh” (182). Chính quyền tin rằng: “Ngành thương nghiệp
xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người nội trợ của
toàn xã hội” (183). Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan
thành mây khói.
***
Chú thích chương 3:
(117) Sài Gòn Giải Phóng, 10-9-1975.
(118) Diễn biến “Chiến dịch X-2” được mô tả: “Ta đã huy động hơn một vạn
nhân lực, kết hợp giữa lực lượng an ninh, quân sự, kinh tài, tuyên huấn
và đội ngũ cán bộ dân chính đảng, thành lập 7 đoàn, 60 đội và 10 ngàn
công nhân lao động, học sinh, sinh viên trực tiếp tham gia đánh vào mục
tiêu đã định. Ta đã bắt được các đối tượng chủ yếu, chiếm lĩnh các cơ sở
xí nghiệp, kho tàng. Chỉ trong hai ngày 10 và 11-9-1975, ta đã huy động
hơn 70 vạn quần chúng nội, ngoại thành, cả người Việt lẫn người Hoa, từ
tầng lớp quần chúng cơ bản đến tiểu thương, tiểu chủ và tư sản dân tộc,
tổ chức mít- tin, biểu tình, sôi nổi lên án và yêu cầu trừng trị bọn tư
sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ…” (Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng
Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20).
(119) Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20.
(120) Một người, rất có thể là con gái của chủ “hãng gà 7.000 con”, là
chị Nguyễn Thị Ngọc Dung. Tháng 9-1975, khi đang học tại trường Đại học
công San Francisco (Mỹ), chị Dung nhận ra “trang trại nuôi gà” của nhà
mình trong một phóng sự do các nhà báo nước ngoài bị kẹt lại Sài Gòn
thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động được Chính quyền tổ chức nhằm
tuyên truyền về "hoạt động tốt đẹp bình thường sau chiến thắng". Chị
Dung viết: “Tôi chắc, vì đấy là trang trại của gia đình tôi gần Thủ Đức.
Khi bất ngờ nhìn thấy, quả thực tôi có hốt hoảng vì đấy là chuyện tình
cờ không bao giờ ngờ được… Tôi lo tới quặn đau cả người. Lo vì những
người gọi là coi trại không có mặt nào tôi quen cả. Những gì mình không
biết, không được biết chỉ khiến nỗi lo thêm nặng, thêm lớn. Cái đau này
không phải là cái đau tưởng tượng hay cái đau tâm tưởng mà người ta hay
nói, ở tôi nó là cái đau thể chất”.
(121) Kết quả “đánh tư sản” trước Chiến dịch X-2: “Về bột ngọt, hộ Đào
Mậu, Hứa Quang, ta bắt được 4 đối tượng chính và bắt thêm 8 tên thư ký
và tài phú, có khai thác nhưng chưa được gì thêm. Số lượng bột ngọt cũ
là 2 tấn và 60 tấn nguyên liệu.
Nhưng đã phân tán nhuyễn nhiều lần khắp các đại lý nhỏ nên không còn
nhiều hàng hóa trong kho, để trốn thuế, chúng chuyển nợ cho đại lý, mỗi
đại lý nợ công ty đến 600 triệu – ít nhất là 100 triệu. Ta có sơ hở
trong việc triển khai nghị quyết đối với đại lý 1000kg trở lên... Vì đã
động ổ, chúng đã phân tán hết dự trữ, do đó đang tiến hành nghiên cứu để
gắn vào đánh trong đợt X-2 tiếp. Cần liên hệ với Tư Pháp Tòa án để hình
thành các tòa án xử công khai trước khi ta vô đợt... Cần tập trung truy
đối tượng ta bắt giữ, trong số này phải lọc một vài tên đầu sỏ để khui
coi nó giấu vàng ở đây. An Ninh và Hoa Vận (Sáu Lâm), tổ chức bắt ngay,
bắt tên chủ hàng Việt Hoa trong vụ tàu để khai thác. Chú ý con đường
xuất cảnh của ngoại kiều, An Ninh, Ngoại vụ Thuế Quan cần kết hợp kiểm
soát chặt. Vừa qua có phát hiện lọt lưới một số CIA, đi rồi mới biết, có
hiện tượng hối lộ cán bộ để đi. Khai thác thêm 2 tên Y và Phôi buôn
vàng lậu hồi ngụy qua mặt Thiệu, có thể đó là bọn CIA... Đối với số vàng
tư trang đem đến tiệm mướn làm. Nếu có hóa đơn thì trả lại cho chủ. Nếu
có tình nghi thì điều tra xong sẽ giải quyết. Đồng ý xuất tiền đã giao
ngân hàng để trả lại các đối tượng chi tiêu tiền ăn, tiền điện nước”
(Biên Bản Giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975, Thư ký Hà Phú Thuận
ghi).
(122) Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 23.
(123) Sđd, trang 25.
(124) Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 25.
(125) Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
(126) Bài báo viết: “Ngay khi ra đời, tờ bạc Sài Gòn đã không hề có được
một chức năng kinh tế nào… Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai
trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền
Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm
trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung
gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến
tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam,
làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn,
tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như
thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại
phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta” (Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975).
(127) Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
(128) Diễn viên điện ảnh nổi tiếng trong phim “Đời Cát”, đầu thập niên
2000, từng tham gia một vai phụ trong phim The Quiet American của đạo
diễn Phillip Noyce.
(129) Theo Mai Hoa, tài sản của gia đình cô chỉ chính thức bị mất vào
tháng 3-1978 trong đợt cải tạo công thương nghiệp tư doanh, khi đó, cha
cô bị buộc phải ký giấy “hiến” trại cưa cho Nhà nước.
(130) Ông Trần Kiêm Đoàn hiện định cư tại Sacramento, California, Mỹ.
(131) Báo Sài Gòn Giải Phóng, 3-9-1975.
(132) “Cùng với Mỹ lũng đoạn kinh tế Miền Nam, xuất ít, nhập nhiều làm
vật giá leo thang, lao động thất nghiệp; dùng đồng tiền đặt tay chân vào
bộ máy chính quyền; đầu cơ tích trữ, mua rẻ bán đắt; thông qua đại lý
tổ chức buôn lậu; xuyên tạc phá hoại các chủ trương của chính phủ; hối
lộ, mua chuộc, gây chia rẽ đội ngũ cách mạng; vơ vét rồi tuồn hàng ra
chợ trời; mua vàng, hạt xoàn tích trữ và in bạc giả; tung tin ‘Bột ngọt
bị đưa ra Bắc’, ‘Xăng dầu sẽ cạn’; thông đồng với bọn phản động chính
trị…” 133 Tin Sáng, 10-9-1975.
(134) Sài Gòn Giải Phóng, 28 & 29-7-1977.
(135) Nội dung luận tội của Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn với “tên tư sản
mại bản” Lưu Trung: “Trong thời gian tiến hành chiến tranh xâm lược đất
nước ta, một số chính trị gia Mỹ, trong đó nổi bật là Guy Pao-ơ, đã vạch
ra âm mưu xảo quyệt gọi là “liên minh giữa quân đội và nông dân”. Âm
mưu này dùng viện trợ kinh tế để biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy
quyền, mua chuộc và lừa mị nông dân. Chúng đã tính từng đường đi nước
bước rất thâm độc: một là, chúng đưa máy móc vào nông thôn, bước đầu cơ
giới hóa một số khâu, đưa năng suất tăng lên. Hai là, khi sản lượng lúa
gạo tăng, chúng tìm mọi cách vơ vét, kể cả thủ đoạn mở những cuộc hành
quân càn quét cướp bóc, để phục dịch cho quân đánh thuê ngày càng phình
to tới hàng triệu người. Ba là, nhờ có cơ giới hóa nông nghiệp, chúng
làm giảm đi một lực lượng lao động lớn ở nông thôn và với chính sách đôn
quân bắt lính, bổ sung nguồn lính đánh thuê để kéo dài cuộc chiến tranh
xâm lược...” (Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977).
(136) Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
(137) Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
(138) Biên bản giao ban tối 10-9-1975 của Ủy Ban Quân quản, lưu trữ tại
Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh 139 Tài liệu đã
dẫn.
(140) Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy
Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch
sử Thành phố Hồ Chí Minh.
(141) Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy
Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch
sử Thành phố Hồ Chí Minh.
(142) Sài Gòn Giải Phóng, 12-9-1976.
(143) Tuyên bố ngày 25-9-1976 của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
(144) Theo Tuyên bố ngày 25-9-1976: “Xí nghiệp công tư hợp doanh là một
xí nghiệp trước đây là của tư nhân, nay do Nhà nước và người chủ cũ
(hoặc người đại diện) của xí nghiệp cùng nhau quản lý. Nhà nước giữ địa
vị lãnh đạo; quyền lợi hợp pháp của các cổ phần tư nhân được Nhà nước
bảo hộ. Các quyền lợi cơ bản của công nhân, viên chức trong xí nghiệp
được nhà nước đảm bảo” (Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
(145) Danh mục các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh
gồm: “Tư bản tư doanh được khuyến khích, đầu tư vào các ngành khai
thác, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản, thổ sản, các ngành công
nghiệp, tiểu công nghiệp khác theo sự hướng dẫn của Nhà nước”. Trong
lĩnh vực nông nghiệp: “Tư bản tư doanh được tiếp tục kinh doanh, khai
thác các đồn điền, trồng cây công nghiệp, cây ăn trái, được duy trì và
mở rộng các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm, cơ sở nuôi cá… công nghiệp
tập trung, được tiếp tục kinh doanh các loại máy móc nông nghiệp, đào
giếng, khoan giếng, thi công các công trình nông nghiệp, thủy lợi”.
Trong lĩnh vực xây dựng: “Tư bản tư doanh được hướng dẫn kinh doanh khai
thác và sản xuất các vật liệu xây dựng, được duy trì chế độ nhà thầu tư
nhân dưới sự quản lý của nhà nước”. Trong lĩnh vực vận tải: “Ngoài các
ngành đường sắt, đường biển viễn dương, đường hàng không thuộc phạm vi
độc quyền kinh doanh của Nhà nước, tư bản tư doanh được kinh doanh trong
các ngành vận tải đường sông, một phần đường ven biển (thuyền, ca-nô)
và đường bộ (ô tô chở khách, chở hàng hóa), dưới sự quản lý và hướng dẫn
của Nhà nước; được duy trì các xí nghiệp để đóng mới hoặc sửa chữa
phương tiện vận tải, hoặc nhận thầu làm cầu, đường phục vụ nhu cầu dân
sinh, kinh tế địa phương”. Trong lĩnh vực “thương nghiệp và dịch vụ phục
vụ: “Việc bảo đảm phân phối các mặt hàng thiết yếu và quan trọng cho
đời sống của nhân dân là do Nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu
trách nhiệm. Vì vậy phải phát triển mạnh thương nghiệp quốc doanh và
mạng lưới rộng rãi hợp tác xã mua bán và các hình thức tổ chức khác của
quần chúng để tham gia việc bán lẻ. Nhà nước nắm toàn bộ nguyên liệu
nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nước và hầu hết hàng hóa
thiết yếu để có kế hoạch bảo đảm sản xuất và đời sống. Nhà nước sẽ nắm
hầu hết xuất nhập khẩu và cả bán buôn trong nước”. (Tóm tắt Tuyên bố của
Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam, ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng
Nguyễn Duy Trinh ký).
(146) Sài Gòn Giải Phóng, 3-11-1976.
(147) Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976.
(148) Thông báo ngày 27-12-1976 của Ủy ban Nhân dân Thành phố (Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976).
(149) Lịch sử Giao thông Vận tải Đường bộ, Nhà Xuất bản Tổng cục Đường bộ, (?), trang 276-277.
(150) Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606.
(151) Cụ thể: Trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu 1.202 xe ô tô các
loại; 58 tàu thuyền đường sông, gồm tàu chở hàng, tàu chở khách và tàu
kéo - số phương tiện vận tải này chủ yếu thuộc người dân Sài Gòn và các
tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang…; Tịch thu ba tàu biển, trưng mua 14 chiếc;
Quốc hữu hóa hai đoàn hoa tiêu; Cho phép một số công ty xây dựng tư
nhân, các nhà thầu chịu cải tạo và chịu sự điều hành của nhà nước; Trưng
mua tài sản của một số công ty như: Công ty Huỳnh Như Hoa, các cổ phần
trong Công ty Nguyễn Văn Tấn, Công ty Lodisbagco; Tổ chức công ty hợp
doanh đối với Công ty Vinameco, Trần Dương và Trần Văn On (Lịch sử Giao
thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang
606-607). Tính đến khi hoàn thành “công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam”, Chính quyền đã: “Trưng mua, trưng thu được 3.287 xe ô tô loại
5T và 40 ghế hành khách trở lên, hợp với các đoàn xe từ khu giải phóng,
xe ngoài Bắc vào là 1.105 chiếc, tổng cộng: 4.393 xe tổ chức thành 14
xí nghiệp quốc doanh… Nhà nước cải tạo và xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về
công cụ sản xuất được 14.059 xe tổ chức thành 45 xí nghiệp công tư hợp
doanh vận tải ô tô… Tổng cộng cả trưng mua, trưng thu, cải tạo được
17.346 xe loại trọng tải lớn tổ chức thành 59 xí nghiệp vận tải quốc
doanh và xí nghiệp vận tải công tư hợp doanh… Số xe vận tải nhỏ (từ 2,5T
và 25 ghế trở xuống) đã được cải tạo là 28.856 xe, tổ chức thành 281
Hợp tác xã, ở hầu hết các quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh hoặc thành
phố…” (Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận
tải, 2005, trang 276-277.).
(152) Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn, 2009, trang 53-54.
(153) Cư trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, Sài Gòn.
(154) Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn 2009, trang 53.
(155) Tương đương 100 lượng vàng.
(156) Sđd, trang 53-54.
(157) Sài Gòn Giải Phóng, 23-3-1978.
(158) Sài Gòn Giải Phóng, 1-8-1977.
(159) “Điều 1, Từ nay các nhà tư sản thương nghiệp không được tiếp tục
làm nghề buôn bán nữa và được nhà nước khuyến khích giúp đỡ chuyển sang
sản xuất. Điều 2, Khi nhận được lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh
thương nghiệp, các nhà tư sản thương nghiệp phải kê khai theo bản mẫu
quy định, cùng với tổ công tác của quận hoặc huyện, tiến hành kiểm kê
hàng hóa tồn kho, cơ sở, phương tiện kinh doanh của mình và làm bản đăng
ký chuyển sang sản xuất để đóng góp phần xây dựng đất nước. Điều 3, Sau
khi kiểm kê xong phải lập biên bản có chữ ký của cán bộ, nhân viên kiểm
kê, đại diện của Ủy ban nhân dân phường, xã và chủ hộ hoặc đại diện hộ.
chủ hộ được giữ 1 bản. Điều 4, Cơ quan chủ quản, ngành, hàng thuộc sở
thương nghiệp hoặc công ty vậ tư tổng hợp thành phố có trách nhiệm trưng
mua hoặc mua lại hàng tồn kho. Cơ sở và phương tiện kinh doanh đã kiêm
kê theo lệnh của chủ tịch Ủy ban nhân dân TP, để đưa vào phục vụ sản
xuất và đời sống nhân dân. Điều 5, Những người vi phạm các quy định trên
đây, tùy theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm, sẽ bị xử lý về
hành chính, kinh tế hoặc bị truy tố ra tòa án nhân dân theo luật pháp
hiện hành…” (Vũ Đình Liệu, Quyết định 341/QĐ- UB, SGGP, 23-3-1978).
(160) Năm 1978 là Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh.
(161) Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.
(162) Để mô tả tính nguyên tắc của ông Đỗ Mười, đồng thời minh họa cho
tính khắc nghiệt của thời bao cấp, trước năm 1975, ở miền Bắc từng có
giai thoại: “Một lần Đỗ Mười vào cửa hàng ăn uống quốc doanh gọi một tô
phở, khi cô mậu dịch bưng ra, ông ngồi đếm từng miếng thịt, phát hiện có
ăn bớt bèn cách chức ngay cửa hàng trưởng”. Giữa thập niên 80, theo ông
Lê Văn Triết: “Một lần ông Đỗ Mười ghé qua Long Hồ, Vĩnh Long, thăm gia
đình ông Phạm Hùng, người nhà ông Phạm Hùng ở quê biếu ông Đỗ Mười 10kg
gạo. Trên đường về Sài Gòn, xe của ông Đỗ Mười bị một trạm kiểm soát
địa phương chặn lại. Khám xe thấy có một bao gạo, bèn quyết định tịch
thu. Người lái xe bảo, đây là gạo của đồng chí Đỗ Mười. Viên trạm trưởng
trả lời, Đỗ Mười chứ Đỗ Mười Một cũng giữ”. Giai thoại kể thêm: “Đỗ
Mười lập tức khen thưởng người trưởng trạm”.
(163) Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
(164) Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
(165) Theo Tống Văn Công, Tổng Biên tập báo Công Nhân Giải Phóng, người tháp tùng chuyến đi của ông Mai Chí Thọ.
(166) Tin Sáng, 12-9-1978.
(167) Tuổi Trẻ, 14-9-1975.
(168) Tuổi Trẻ, 31-3-1978.
(169) Nhật ký Lý Mỹ: “Chủ nhật 7-3-76: Tại sao mình yếu đuối thế này? Qua
cơn bệnh, lại bị gia đình rầy rà, mình khổ tâm quá. Thôi, hay là mình
xin ra khỏi Đoàn vậy, bởi vì mình cảm thấy chưa xứng đáng là một đoàn
viên khi gia đình mình vẫn còn sống trong cảnh bóc lột. Nhưng như vậy
mình xin vào Đoàn để làm gì, đọc Pa-ven để làm gì trong khi chỉ một ít
khó khăn trong gia đình thì mình lại chùn bước. Suy nghĩ như thế thật
tồi. Không, hãy ngẩng đầu lên, hãy kiên nhẫn vượt qua mọi khó khăn”
(Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
(170) Số 4 Duy Tân, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.
(171) Trích nhật ký Lý Mỹ: “Ngày 23-3-1978: Hơn 6 giờ chiều, đèn đường đã
bật sáng cả con đường từ trường đến nhà. Con đường hôm nay nom có vẻ
khác lạ hơn những ngày khác. Có nhiều toán thanh niên đang đóng chốt ở
những cửa hàng lớn dọc trên con đường. Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên
phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi những ung
nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay- ngày mở đầu một
cuộc đấu tranh lớn. Mỹ vui và phấn khởi khi nghe đồng chí Thường vụ
Thành đoàn tập huấn. Đây đúng là thời cơ để thuyết phục gia đình chuyển
sang sản xuất, thời điểm chấm dứt cuộc đấu tranh giữa hai con đường
trong gia đình, một thời điểm mà mình đã mong ước từ bấy lâu nay… Ngày
24-3-1978: “Mình nắm lấy thời cơ nầy để tuyên truyền đường lối, chính
sách cải tạo thương nghiệp tư sản cho gia đình. Mình phải kiên trì
thuyết phục cha mẹ, phải bám gia đình từng giây, từng phút, giúp đỡ gia
đình kê khai tài sản”. Ngày 24-3-1978 của Lý Mỹ được báo Tuổi Trẻ tường
thuật: Đi kèm bên mẹ, Mỹ luôn nhắc nhở mẹ nên kê khai những món hàng gì,
thỉnh thoảng động viên người mẹ đang buồn rầu, hoang mang bởi những tin
đồn thất thiệt. “Tịch thu tài sản rồi phải không? Mầy hãy lo lấy thân
mầy đi, còn ăn học gì nữa”. “Đâu có ai tịch thu tài sản của mình đâu má.
Mình kê khai đúng, đầy đủ, nhà nước sẽ trưng mua, với số vốn đó gia
đình mình chuyển sang cách làm ăn mới. Vấn đề là mình có thành thật kê
khai không”. “Vậy hả”. Rồi: Má Mỹ trở nên yên tâm hơn, sự bình tĩnh đã
bắt đầu lộ rõ trên gương mặt. Trong lúc đó, Mỹ liến thoắng: “Tư trang,
tư liệu sinh hoạt phải viết vào mục nào hả đồng chí?”. Miệng nói, tay
viết, mà mắt Mỹ vẫn liếc vào những chiếc tủ đựng đầy ắp những món hàng
để xem chừng mình đã khai đầy đủ chưa. Bây giờ, Mỹ đã trở thành một
người chủ quản của gia đình. Mỹ thấy tự hào và sung sướng lạ. (Tuổi Trẻ,
31-3-1978).
(172) Số ra ngày 8-4-1978.
(173) Xí nghiệp “Bình Minh 9”.
(174) Trong giai đoạn 1975-1980, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa
hơn 832 nghìn người hồi hương hoặc đi kinh tế mới ở các tỉnh từ miền
Tây, miền Đông Nam Bộ cho tới Tây Nguyên. 90% số này rời khỏi Thành phố
trong giai đoạn 1975-1980, thời gian tư sản bị cải tạo và chính sách sổ
gạo bắt đầu được thắt chặt. Bằng những quyết định hành chánh ấy, dân số
Sài Gòn đã giảm từ 3,391 triệu người năm 1976 xuống còn 3,201 triệu
người năm 1980. 7% lượng người nhập cư mới có nơi sinh là Sài Gòn, họ là
những người từng bị đưa đi kinh tế mới trong thời kỳ 1975-1980. Cho đến
cuối thập niên 1990, vẫn còn 24% số người không có hộ khẩu thường trú
tại Thành phố Hồ Chí Minh vốn là người Sài Gòn-Gia Định. Họ là nạn nhân
của chính sách kinh tế mới trong giai đoạn 1975-1980.
(175) Sài Gòn Giải Phóng, 10-4-1978.
(176) Sài Gòn Giải Phóng, 13-4-1978.
(177) Sài Gòn Giải Phóng, 18-4-1978.
(178) Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Lê Thành Nhơn phát biểu
trước lễ tiễn 200 nhà tư sản thương nghiệp đăng ký đi kinh tế mới Gia
Lành, Lâm Đồng, sáng 18-4-1978- SGGP 19-4-1978.
(179) Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
(180) Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.
(181) Đào Duy Tùng, 2008, trang 216-217-218.
(182) Chỉ thị 147, năm 1977, của Thủ tướng Chính phủ.
(183) Sài Gòn Giải Phóng, 14-7-1977.
No comments:
Post a Comment