Chương 5: Chiến Tranh
***
Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng
ma áo đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây
Nam, nhưng người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng
chiến tranh được Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh
đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên
tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự yên vui, trai tráng
lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với những “người
anh em” Cộng sản.
Biên giới Tây Nam
Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ
Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền
Campuchia đã huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc
biên giới, mở những cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư
đoàn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền
diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc tấn công kéo dài
trên vùng biên giới Tây Nam. Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn
Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế,
sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam” (219). Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một” (220). Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người. Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển” (221). Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót” (222). Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký. Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ (223). Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết” (224). Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này. Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới (225). Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng” (226). Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh đạo địa phương” (227). Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa (228). Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.
Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam” (219). Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một” (220). Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người. Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển” (221). Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót” (222). Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký. Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ (223). Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết” (224). Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này. Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới (225). Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng” (226). Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh đạo địa phương” (227). Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa (228). Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.
Pol Pot
Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép
đến Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn
xã Việt Nam, dẫn đầu. Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình
hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot
vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông Xuân. Không ai biết, trong
thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người Khmer cộng sản khác,
Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục cơm nguội. Ở
Paris, nhà ông Xuân được
những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.
những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.
Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth
Sar bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi,
Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang
náo động bởi các phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh.
Thành phố lớn nhất mà Saloth Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ
trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận được học bổng học ngành vô
tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù
được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng
tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người
Khmer sinh ra ở Việt Nam.
Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith – một sinh viên đang học
về văn chương Anh tại Sorbonne – Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu
Ponnary, chị gái Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng
Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được
coi là một con người lịch lãm, khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta
không giết nổi ngay cả một con gà. Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về
Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi rớt. Những ngày
đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào đòi độc lập
đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay, bắt
liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng
Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba – một đảng
viên người Việt Nam – đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân
Cách mạng Khmer. Sau Đại hội lần thứ II – tháng 2-1951, Đảng Cộng sản
Đông Dương đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam – những người cộng sản
Lào, Khmer trong năm ấy đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày
21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập các đảng viên người
Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Cách
mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là
Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch. Sơn Ngọc Minh là người sáng lập
Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh hưởng trên địa bàn bốn
tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên đất Khmer lúc
ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth Sar và một
số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một
chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư.
Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những
công việc tạp vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt.
Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính
phủ Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người
Khmer Cộng sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến
Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc
Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại
hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou Samouth, chịu sự truy
lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu Heng đầu hàng,
nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp. Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer
tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc
Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa
từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương nhiên trở thành
bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các Phật tử
ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những
người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi
ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào
những người Việt Nam Cộng sản.
Đi dây
Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong
nửa cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông – vị vua của một một quốc gia thờ
thần bốn mặt – các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có
những mối quan hệ phức tạp với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung
lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc cho Pol Pot phát triển nhanh phong
trào Khmer Đỏ.
Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu
nhìn thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc
gia. Hoàng đế Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế
chống lại quân Xiêm. Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa
của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi
gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông
Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông
Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi miền Bắc xác
định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường men
theo lãnh thổ Lào, Campuchia – thường được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh
– bắt đầu được thiết lập. Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử
dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn
công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã
yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì kẻ địch có ở Campuchia”, đồng
thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”. Người Mỹ
cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận
vũ khí từ Liên Xô. Trong thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với
Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm
1967, ba bộ trưởng cánh tả – Khieu Sam phan, Hou Youn, Hu Nim – đã phải
bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh
và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt Nam lập căn cứ trên lãnh thổ
của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với Hà Nội, Bắc Kinh và
các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho Việt Nam
Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối
lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt
Nam Cộng hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu
sát Sihanouk bằng bom. Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với
miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ.
Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công
khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Miền Bắc
Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối năm
1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được
đề nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã
ghi điều này vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã
không hết lòng với ông ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ
mà là cầm quyền, nhưng làm sao có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia
vững mạnh. Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời
gian đó, Cách mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia
sẻ nhiều mục tiêu của cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong
con đường cách mạng của Pol Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt
đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm
vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số cuộc nổi dậy do Pol
Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du kích Khmer Đỏ
xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng vì
khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk. Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất
nhiều so với những gì mà các bên đánh giá. Một mặt, ông làm ngơ cho
miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày 10-1-1968,
khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson, Sihanouk
nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng tôi
sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng
tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các
ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng” (229). Nhà Trắng đã “dịch” câu
nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn cứ ấy. Hai
tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc
họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong
đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả” (230). Năm 1969, Sihanouk
tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi
việc thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.
Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một
người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì,
bệnh máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các
tướng tá và chính trị gia – những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ
chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại
giao – bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn
ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một cuộc biểu
tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên
Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh. Lẽ ra,
ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình,
nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch
Xô-Viết Tối cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng
Sihanouk đã ở lại đó năm ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế
truất chức quốc trưởng của ông. Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên
Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn ông ra sân bay. Không ai trong
đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả. Tất nhiên, miền Bắc
Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật Hồng, người
thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả Campuchia,
xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ
sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung
cấp vũ khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quốc và Liên Xô
xung đột với nhau, đóng cửa biên giới, hàng hóa từ Liên Xô không
thể chuyển bằng tàu liên vận qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải
thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ của Liên Xô về cảng
Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”. Đổi lại,
một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai
người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người
một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ (231). Trong những năm 1966-1969, lượng
hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478
tấn vũ khí, 1.284 tấn quân trang, 731 tấn thuốc men, 65.810 tấn gạo , 5.000 tấn muối, và 4.115 tấn thực phẩm hộp̣ và khô.
Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của
ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của
ta có thể đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng
thay vì lấy tiền”. Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót
đường” này được bản “Báo cáo Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do
ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi phí vâṇ tải tuyệt
mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.
Lịch sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng
đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo
nghi thức của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra
tận cầu thang máy bay ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại
giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của
Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã
cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn
coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi cũng cho
họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại
sân bay” (232). Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai
đã tặng Sihanouk một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh
thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng,
xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ.
Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành thường
xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp.
Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem
xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội sỹ quan
cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử
dụng. Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch
Đông nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và
quyết định lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng
Campuchia thì Trung Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có
thể” (233). Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ
đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh,
cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp tác. Hai hôm sau, ngày
23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay với Khmer Đỏ,
những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”. Sihanouk cũng
tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất dân
tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người
Cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk”
được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ
quốc gia (234). Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên
giới” để tham gia Hội thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng
với Thái tử Souvanouvon của Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt
trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào
ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết “hỗ trợ có đi có
lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”. Trước đó,
lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải truyền đơn và
phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp
Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.
Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để
Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó
gây ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ
thành hiện thực thì đó chính là Hà Nội” (235). Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã
đóng một vai trò quan trọng (236).
Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm
thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn
thanh niên tham gia lực lượng của họ (237). Năm 1974, mọi thanh niên từ
mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người
từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng
trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung hãn. Khi đàm phán Hiệp định
Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia.
Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ,
chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức
hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc
muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có
thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là
người đứng đầu quốc gia” (238). Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có
thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước ở Campuchia và
người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua” (239). Tháng 2-1973, khi
Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận ra: “Các lãnh
đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có thể
là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối
với Trung Quốc” (240). Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức
tạp, có quá nhiều người chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết
Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng
con bài Sihanouk. Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với
Việt Nam của Pol Pot có bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ
Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4- 1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị
thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng
hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đã thẳng thừng từ
chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn khiến cho
những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào
Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi
Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở
Thủ đô đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ
tướng Chăn Si, một cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về
điều này đã rơm rớm nước mắt, trách ta coi nhẹ những người cộng sản
Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa” (241).
Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về
danh nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ
nắm. Sihanouk đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này
nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp
Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary
lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội và được Thủ tướng Phạm
Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác động thêm để Pol Pot
chấp nhận chuyến đi của Sihanouk (242). Khmer Đỏ đã khai thác được triệt
để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại,
nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt,
Khmer Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk (243).
Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và
trợ giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào
Phnom Penh. Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng
bước phá vỡ sức đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom
Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành
phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố
vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không. Ngày 17-4, Phnom
Penh được giải phóng” (244). Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”,
Phnom Penh gần như không ngủ, phần vì cả thành phố chìm trong tiếng
súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố mới cho dù không ai lúc ấy
có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.
Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân
đội đầu hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn
người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón
Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra
yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn
chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng
Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh
cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính
quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế
quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ
tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak
sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi
điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng
sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định
đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động
Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em
nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các
tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương
cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4- 1975, ở Battambang, các sỹ quan
được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả
là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.
Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả
các đô thị trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân
của chế độ gồm có cả mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở
Phnom Penh còn có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ
phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng
trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.
Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt
người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc
phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không
đáng giá so với những gì sẽ mất. Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng,
con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đã phải đi bộ nhiều
ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot
dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại.
Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm
la liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường
đi (245). Tính cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do
không chịu chấp hành, hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những
ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot nhận được “tin chiến thắng”
khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy,
chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng chào mừng hay điều
gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta nói đơn giản
đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được” (246).
Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa
toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn. Ngày 17-4-1975, Yeng
Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh đi Rattanakiri,
Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa trở về
Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn
quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng
chính “máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân
tộc” (247). Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn
thường trực trên môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám
điểm: di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu
tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền tệ; buộc các nhà sư phải lao động
tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo Lonnol; thành lập các hợp
tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; trục xuất
toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên
giới Việt Nam (248). Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ
của Khmer Đỏ, giải thích việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là
nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao động chân tay như những người
nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh hơn và có ảnh hưởng
hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc bãi bỏ sử dụng
đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản, mà:
“Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào
tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ
dùng tiền để hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm,
hai mươi năm nữa, cái xã hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt
Nam” (249). Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng
sản, tái lập đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt
trở thành một tên giết người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung
ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung
Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm” (250).
Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12- 15 giờ mỗi ngày,
trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất khẩu hai
triệu tấn trong năm 1977.
Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau
Đại hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước
vĩ đại” và vẫn được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy,
Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài
nhìn ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng
Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới
Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông:
“Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể
vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta
có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa
xã hội” (251). Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp
tùng Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.
Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh” (252)
nhưng có vẻ như ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở
Campuchia. Mao chỉ thị cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân
Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.
Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy
cũng đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu
Samphan và Yeng Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin
hãy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô hình đại nhảy
vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và
Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học tập ai
đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xã hội chưa từng có
trong lịch sử. Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng
Tiểu Bình gọi đây là “sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot
chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên
Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người
chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ hồi tháng 4-1975,
ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp
họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi
New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris,
không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở
của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã
nhận ra không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm
kiêu hãnh” cá nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ
và hai mươi hai người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục
là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù
nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến
các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi
mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở
Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông,
chỉ có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành
phần chủ yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến
pháp mới, Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu
lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch.
Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So
Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol
Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ tướng, Yeng Sary làm bộ
trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng. Ngày 22-7-1975,
trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn thế
giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời,
không ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên
cuối cùng và giành thắng lợi hoàn toàn” (253) như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho
rằng: “Đây là một thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.
“Kẻ Thù Lịch Sử”
Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của
Đảng trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ
vừa là công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính
sách thù địch với Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định
kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ
ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng
sản Đông Dương. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo
lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở
Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt Nam chiếm số đông.
Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người theo đường
lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới
Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới
thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ
“đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot,
nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại
bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng
tôi cũng từ chối” (254). Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại
các căn cứ nằm dọc theo biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm
về sau được xác định là lực lượng của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù
địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer
Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt Nam huấn
luyện. Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng
Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng,
yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền
Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến
một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer
Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ
đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra. Mấy
tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng
Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng
qua biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái
chết của ông Thắm không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị
nhỏ lẻ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ
sau khi các đơn vị miền Bắc Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới
tạm hạn chế quấy rối. Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra
miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ
tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang
Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ
trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol
Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía
Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer
Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng,
những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá
đúng mức và các nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã
không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng
đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm quốc gia chùa tháp. Ngày
2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ
Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ
đụng độ ở các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh
trước khi tiến đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác
thường gì. Đúng hai tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn
đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp
trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một
thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không trở thành mối băn khoăn của ông
và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt
Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ
thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn
“tình anh em giữa hai đảng và hai dân tộc” (255). Theo một thành viên của
đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình
đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm trình diễn văn
nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng Pol Pot thì tiếp
đãi đoàn vô cùng nồng thắm (256).
Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh
trừng những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol
Pot tiến hành. Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ
thời Đảng Cộng sản Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần
thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà
tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia.
Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn dính líu. Mười ngày
trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm,
đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp
khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến
khi “nhận tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách
ra một văn bản, xác định thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951
mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta
làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào
trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc lập và tự
chủ cho chúng ta” (257). Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam
từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc
khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và
Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”.
Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đã làm
Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói
rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải
thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của
người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng
cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ” (258). Tháng 12-1976, khi
Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng
chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà Nội
như hai mươi chín “đảng anh em” khác (259). Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam
vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên
toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi
hai đồn biên phòng; trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn
thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông
Bé.
Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt
Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm
trọng. Dân tình lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn.
Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho
quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng
8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên
địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được
giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại
chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp
Mười, chủ yếu đào kinh (260). Tinh thần của bộ đội, vì thế, cũng có những
“diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm chiến đấu
liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được
giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa
được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm
chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ
đội đang từ thành phố, thị xã… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh
tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây hoang, sình lầy, chua phèn;
thiếu thốn cơ cực đủ bề” (261).
Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên
khi Pol Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu
tổn thất lớn. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía
Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng
về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược
thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9- 1977, Thường vụ Quân
ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết tình
hình biên giới Tây Nam”. Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt
một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao
trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu
IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot
dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa phương thuộc
quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An Giang.
Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn
vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến,
nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây
dựng kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị
động, lúng túng, thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức
Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên
tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được
trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến
đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường biên. Một
tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực
lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn
tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh
chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia,
vòng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích,
xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi
phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà,
đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực, trong đó có
khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh lại
phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp” (262). Sau khi Trung
đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một
hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần
địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An
Giang lại bị Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4
buộc phải lùi về phía sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba
Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải
vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh Vĩnh Tế. Không lâu sau,
khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh Ba Chúc với
quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được.
Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ
mà Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt
thời chống Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng
hai tiểu đoàn địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113,
đánh thẳng vào khu vực cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som
sâu trong đất Campuchia từ hai mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng
thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị
chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi người dân Campuchia đã
vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới (263). Các lực lượng của
Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày. Chưa
đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol
Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu
Đốc, An Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn
14 cùng với Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc
và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa
phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được địa bàn, để quân
Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá sập hai cây
cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới
đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người
già và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền
phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer
Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ ném
lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều
thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết (264). Theo ông Trà:
“Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết
chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi
đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường
được giữ lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến
quay phim. Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố (265).
“Nhất Biên Đảo”
Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày
15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con
tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào
mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô
dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non
sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay
hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do” (266). Bí thư Lê Duẩn
nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100 năm lại
đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt
nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này,
ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công
hiển hách ấy xứng được hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy
cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn
lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn lạc hậu, bị
chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội
ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam
Á” (267). Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị
chiến đấu. Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội
làm kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn
mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho
tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho
sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội gần như không có
phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô cấp sư
đoàn (268). Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên.
Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê
Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12
giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi
nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba
mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn
sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó
hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả
nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là
vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ,
đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi,
nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung
Quốc cũng không chiếm ta”. Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất
Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt Nam phát hiện nhiều tài
liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng 1-1979, khi tiến
vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản hiệp định viện
trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu
trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại Phnom
Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho
Khmer Đỏ pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500
chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử
dụng những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn
gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt
Nam ở vùng Tây Nguyên (269). Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những
người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã giúp thế giới biết được phần nào nội
tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp dư luận quốc tế để ủng
hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi chiến tranh, nếu
Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi vào tay
Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân:
“Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục
mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi,
anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta
mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu,
tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm
vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi
được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí
Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi
máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm
dẻo này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ
Chính trị bàn về vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài
Gòn cũ có tham gia không?’, có người nói: ‘Ta mà kế thừa Ngụy à?’, có
người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba quát: tại sao không!”. Đặng
Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau sẽ ví Việt Nam là
Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ lực bất
thành nối lại bang giao với Mỹ. Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng
Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có
nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng (270). Tiếp đó, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường
hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”. Các đại
diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank,
được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được
thông báo rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại
những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị
Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện
cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger
gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị
thảo luận vấn đề “bình thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa
ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có
thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral
R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang
giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong
đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ phải
bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp
định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp
định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông
Lê Duẩn nói: “Bình thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu
đâu”. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều
kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả
năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn
về việc nối lại bang giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng
Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard
Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ
lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau
khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên
trong tòa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá
cho những người Mỹ đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc
chiến tranh Việt Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó
khăn” và ông đã phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter
nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa
chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp
hơn” (271). Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để Việt Nam
vào Liên Hiệp Quốc. Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ
trương bình thường hóa vô điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu
tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở
Paris. Ông Trần Quang Cơ (272), người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ
lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm phán là do chúng ta
cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”. Số
tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố
vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris (273). Khoản tiền này
đã từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt
Nam tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi
đoàn lên đường sang Paris đàm phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông
Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô,
đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu
máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook
nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi, cứ
bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện
trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo
với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không
được”. Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến
tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”,
Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một
siêu cường như Mỹ. Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều
kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đã nghiêng về chủ trương
“chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An
ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Yêu cầu
lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo
một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi
hỏi này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân
đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel
và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng,
năm 1978, vấn đề Việt Nam không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa” (274).
Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ
Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên
của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội
Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức điện tín được coi là không quan trọng
lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất. 19-5-1978, một ngày trước
khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: Trung Quốc là NATO
phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của
Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus
Vance đi thăm Bắc Kinh. Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng
Dân chủ và Cộng hòa do Hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy
ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí
bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần Quang Cơ đích
thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người
Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ
Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau
30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức
do phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá
muộn. Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ
sau một thời gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện
với Liên Xô. Cuộc đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh
nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này,
Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa
hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự
đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên Xô đang có mặt ở
Việt Nam (275). Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá
thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập
luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”.
Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một
bên. Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần
Tích Liên, ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi
thẳng tới Hà Nội mà dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy
đang được xây dựng bởi Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu
gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm
dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên,
nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói gì tới bài diễn văn
“chống bá quyền” của Trung Quốc.
Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới
được phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi
Trung Nam Hải, nêu vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam
liên kết với Bắc Kinh chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề
cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về
phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho chuyến đi của Lê Duẩn
hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo
luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực
Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn
có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong
đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự
Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng
sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi
nước (276). Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối
Comecon (277) trong khi xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự
Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai
thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào Comecon (278). Nhưng để “tiến
nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất cần tiền bạc. Trong khi
đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ
đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng
bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở
trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại
gây ra đói kém, mất mùa. Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông
là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã không ra sân bay đón. Tướng
Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi này (279). Một tuần sau,
khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung
Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm
1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với
Bắc Kinh. Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một
đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc
được đổi bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một
đồng. Không có biến động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo
tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là
“để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng,
đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam phát hành tại
miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc
giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin
lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm
mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng
65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Sự căng thẳng giữa
Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ sỹ
Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga
rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì
bị một kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ
Thanh Nga, luật sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe
honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế
sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế
lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh
Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt tẩu thoát. Cái
chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn,
chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực
lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được
một số thư từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê
Linh và đã từng bị ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án
Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như là một chuyên án chính trị. Quan
tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu hút hàng vạn người Sài
Gòn (280). Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào
thế “nhất biên đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô
bắt đầu đến các căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977,
chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên
các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ
quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối
thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông
Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba
“trở ngại” mới: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, mối quan hệ với
Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam. Sau một tháng trời
chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không, ông chuyển tiếp ở
Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978, Lê Duẩn,
Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô.
Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai
mươi lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như
một căn cứ quân sự, đã được ký kết. Hiệp ước đã như một “món quà” đối
với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến
công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô,
thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững tin vào mối
quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía Tây
Nam đất nước.
“Áo lính lại khoác vào ngay” (281)
Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội
nghị Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề
Campuchia. Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội
Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị
thương và bị giết. Trung ương xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt. Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn
của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đã
đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng Ngự,
Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào
Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang. Ngày
23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ lực
cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của
Tướng Lê Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ
lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này.
Nhưng thay vì tập hợp lực lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã
tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân, để có những “người
Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi giống” (282). Những cuộc
thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy
vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người
này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào
Nam để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy
người do Lê Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại
và số vừa chạy sang từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban
Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về
Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày 2-12-1978. Một lực lượng
đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm Hoàng thân
Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc
khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời
khuyên của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành
động xâm lược của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc
Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang BangKok. Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt
Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực lượng Khmer Đỏ
chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ. Ngày
11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội
Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary
bị Đặng Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk
đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo
chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã
đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy
nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng
Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật tìm
gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk trở lại tay
của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.
Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại
trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói
chuyện Mỹ- Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia
của Việt Nam” (283). Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung,
chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ
ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu Bình tại
Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu Bình biết ảnh hưởng
quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông báo với Tổng
thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng
“không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai
người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang
giao của hai nước. Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ
súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc
(Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo
chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng
người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát
biên giới khoảng 450 nghìn quân (284) và sử dụng 200 nghìn quân trong ngày
đầu xâm lược(285). Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn (286). Các lực lượng tự vệ ở
khu vực Hữu Nghị Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ
những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở
hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người dân đã phải chạy vào hang núi
tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay
sát dưới chân.
Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh
nhuệ, trong khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác
chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư
đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy đã phải phản công trong điều kiện
hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979,
còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn vào
ngày 22-2” (287). Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên phòng
đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố
tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của
thị xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng
B41. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung
Quốc, người dân mới hay đất nước lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng
trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư
đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho
hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn và
bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung
Quốc áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực (288). Ngày
17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm
Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng
Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát
từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc
Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối
chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ còn là
một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng,
quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước
khi rút lui đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát Xát, Lào Cai,
hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong
ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng
Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính
Trung Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi
trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng
dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác,
bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối. Bằng một lực lượng nhỏ
hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu.
Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi là những
“khe núi đẫm máu” (289). Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau
ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi
về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía.
Mãi tới ba tuần sau quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn,
trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên
hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng 25.000 lính Trung Quốc
bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5
tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là
22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một
bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới
là người đã dạy cho Trung Quốc bài học” (290). Những người dân Biên giới
cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị
những cánh quân Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng
3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu
đánh những đòn vu hồi, quân đội Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã
quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng tác chiến. Ngày 2-3-1979, như
để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình bị tấn
công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc
Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với
Việt Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát
đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt
Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều
tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” (291).
Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời
kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng
tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại
hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác
cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định
số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung
Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”. Trên báo Nhân
Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng
thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi
Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân
đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn. Ngày
6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.
***
Chú thích chương 5
(219) Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
(220) Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
(221) Phạm Văn Trà, 2009, trang 260.
(222) Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
(223) Phạm Văn Trà, 2009, trang 252-260.
(224) Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
(225) Năm 1939, biên giới Campuchia - Việt Nam đã được xác lập theo lằn
ranh Brevié, theo đó: Một đường thẳng vẽ từ biên giới đất liền, theo một
góc 140 độ về hướng vịnh Thái Lan; khi tới đảo Phú Quốc thì lệch ra ba
cây số về hướng Bắc, đặt Phú Quốc trong phần lãnh thổ Việt Nam. Sau năm
1954, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa định một “đường ranh tuần tiễu” khác,
xác lập lãnh thổ Việt nam bao gồm đảo Trọc. Cũng trong thập niên 1960,
miền Bắc Việt Nam công nhận đường Brevié với Chính quyền Sihanouk, nghĩa
là không bao gồm đảo Poulo Vai. Trong cuộc họp trù bị tại Phnom Penh
bắt đầu từ ngày 4-5-1976, Trưởng Đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao
Phan Hiền, công nhận tất cả các đảo phía Bắc lằn ranh Brevié thuộc quyền
Campuchia, nhưng đề nghị đàm phán lại về “lằn ranh tuần tiễu”. Cuộc đàm
phán kéo dài đến ngày 18- 5-1976 thì phía Campuchia đề nghị tạm hoãn để
có thời gian “xin chỉ thị của các Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng đang đi
công tác xa Phnom Penh”.
(226) Trong năm 1976 mà Nuôn Chea nhắc đến “tình anh em cách mạng” đó,
Khmer Đỏ đã gây ra 250 vụ xâm lấn lãnh thổ, pháo kích, tập kích, gài
mìn, cắm chông, cướp trâu, cướp bò và giết hại vô cùng dã man nhiều
người dân vùng biên giới… Từ tháng 12-1975, Khmer Đỏ đã tiến hành hàng
loạt vụ gây hấn: lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam ở vùng Sa Thầy hơn 10km;
chiếm kho thóc X 114 rồi đóng luôn lại đó; bắt, mang đi toàn bộ 113
người dân làng Xộp, thuộc tỉnh Gia Lai- Kon Tum; tập kích đồn Biên phòng
số 8, tỉnh Daklak… Thế nhưng, Phnom Penh vẫn nói, đó là những hành động
gây ra “do hiểu lầm ở các địa phương” (Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978).
(227) Ngô Điền, 1992, trang (?).
(228) Có khoảng 1.671.000 trên tổng số 7.890.000 dân Campuchia đã bị giết
trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 1979, (21%). Trong đó, có
215.000 người Hoa trong tổng số 430.000 người Hoa ở Campuchia (50%);
20.000 người Việt Nam trong tổng số 20.000 người kẹt lại ở Campuchia;
4,000/10,000 người Lào; 2.000/5.000 người Khmer Krom; 90.000/250.000
người Chàm; 8.000/20.000 người Thái; 9.000/60.000 người thượng (Ben
Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại học Yale 1996, trang 458).
(229) Henry Kissingger, 2003, trang 67.
(230) Sđd, trang 68.
(231) Khi ở cảng Sihanoukville, vũ khí được chở về gần tới nơi thì ở Hà
Nội, Đại tá Lê Xuân Ba, trưởng Phòng Kế hoạch của Tổng Cục hậu cần hẹn
ông Nguyễn Nhật Hồng ra một vườn hoa, khi thì Chí Linh, khi thì vườn hoa
đối diện Cột Cờ Hà Nội.
Đại tá Ba kẹp tờ vận đơn mà Liên Xô cung cấp, liệt kê chủng loại vũ khí
được chở trên những con tàu sắp về trong một tờ báo. Ông Hồng cũng cầm
một tờ báo bên trong kẹp bảng đơn giá vũ khí. Họ tính toán giá trị tổng
số vũ khí rồi tính ra khoản tiền 10% chi cho Lonnol, 10 % chi cho
Sihanouk, báo cho hai người biết khối lượng hàng hóa, khoản tiền mà họ
sẽ được trả; B29 chuyển tiền vào tài khoản bí mật của hai người.
Sihanouk, Lonnol kiểm tra thấy có đủ tiền thì đồng ý cho tàu vào cảng.
An ninh được bảo đảm gần như tuyệt đối vì, theo ông Hồng, chính Lonnol
cử một tiểu đoàn bảo vệ trong quá trình bốc dỡ ở cảng và sau đó áp tải
vận chuyển từ cảng về các căn cứ của quân Giải phóng.
(232) Sihanouk và Bernard Krissher, 1999, trang 133-134.
(233) Sđd, trang 137.
(234) Trung Quốc đã dành cho Sihanouk một khu gồm những dinh thự đẹp, chỉ
cách Thiên An môn một quãng ngắn, để làm trụ sở Chính phủ. Ở Bắc Kinh,
các lãnh tụ cộng sản Trung Hoa trong khi đưa Cựu hoàng Phổ Nghi của họ
đi làm vườn đã cung cấp cho Sihanouk nhiều nhân viên phục vụ và cả một
đội đầu bếp tài giỏi, một ban thư ký lớn và các dịch vụ thông thường của
một Hoàng cung, kể cả nhân viên văn phòng, một đội xe con, một trung
tâm thể thao và một phòng chiếu phim riêng. Theo Sihanouk: “Chu không
bao giờ cho phép tôi đi tàu hỏa thông thường hoặc máy bay chở khách đến
các tỉnh của Trung Quốc kể cả khi đi thăm nước ngoài. Ông luôn dành cho
tôi những chuyến tàu đặc biệt có một toa rất xa hoa dành cho tổng thống
hoặc thuê chuyên cơ cho tôi, kể cả một máy bay phụ để chở những thùng
quà ngoại giao mà tôi sẽ tặng trong các chuyến thăm hữu nghị” (Sihanouk
và Bernard Krissher, Hồi ký Sihanouk, Trần Chí Hùng dịch, Nhà Xuất bản
Công an Nhân dân 1999, trang 124). Trước và sau những chuyến đi, Chu Ân
Lai - vị Thủ tướng của quốc gia hơn 800 triệu dân - bao giờ cũng đích
thân đưa và đón một ông hoàng thất thế bằng những nghi thức mà Bắc Kinh
vẫn dành cho hàng nguyên thủ.
(235) Theo Kissinger: “Chính Hà Nội đã cự tuyệt đề nghị của Mỹ phục hồi
tư cách trung lập của Campuchia khi tôi trao đổi với Lê Đức Thọ trong
một cuộc gặp bí mật ngày 4-4-1970. Chính Hà Nội từ chối đàm phán hòa
bình với điều kiện tiên quyết phải loại trừ tất cả những cơ cấu phi Cộng
sản. Chính Hà Nội đã bác bỏ các đề nghị đình chiến vào tháng 10-1970,
5- 1971, 10-1971, 10-1972 cho đến tháng 1-1973. Chính Khmer Đỏ được Hà
Nội tổ chức, trang bị và hậu thuẫn đã ngăn cản việc đưa Campuchia vào
Hiệp định Paris, điều mà Mỹ nhiều lần mong muốn” (Henry Kissingger,
2003, trang 470).
(236) Ben Kiernan, 1996, trang 16.
(237) Trong khoảng thời gian từ tháng 2 cho đến tháng 8-1973, người Mỹ đã
ném 257.465 tấn bom xuống các khu vực nói là của Khmer Đỏ. Pol Pot cho
rằng miền Bắc Việt Nam có phần trách nhiệm khi ký Hiệp định Paris để Mỹ
rảnh tay tiêu diệt Khmer Đỏ. Nhưng Kissinger thừa nhận “việc ném bom là
con bài mặc cả” giữa Bắc Kinh và Mỹ, vì “Chu Ân Lai cần hoạt động quân
sự của Mỹ ở Campuchia để chính sách của mình đạt hiệu quả” (Kissinger,
2003, trang 484). Chu Ân Lai biết ngay cả Trung Quốc cũng khó khiến cho
Khmer Đỏ chấp thuận trừ khi chúng bị thuyết phục là “chúng không thể
chiếm ưu thế về mặt quân sự khi tiếp tục bị ném bom” (Kissinger, 2003,
trang 484).
(238) Henry Kissingger, 2003, trang 475.
(239) Henry Kissinger, 2003, trang 475.
(240) Sđd, trang 474.
(241) Ngô Điền, 1992, trang (?).
(242) Để tổ chức chuyến đi kéo dài từ 27-2 cho đến 17-4-1973, tháng
2-1973, Việt Nam thành lập “Đoàn Thắng Lợi”, trong đó có hai cán bộ nữ
phục vụ riêng bà hoàng Monique, tổng cộng 89 người. Một quan chức của Bộ
Ngoại giao được cử làm Trưởng Đoàn; Cựu Đại sứ Việt Nam tại Campuchia
Nguyễn Thương và Đại tá Lê Đình Xoàn, Phó Tư lệnh 559, Phó Đoàn.
Ngày 27-2-1973, Đoàn đi xe vào Đồng Hới để ngày hôm sau đón Sihanouk
cùng bà Hoàng và “cố vấn” Yeng Sary, được đưa từ Hà Nội vào bằng máy bay
AN 26. Từ Đồng Hới, Đoàn đi qua Lao Bảo, theo Đường 9 Nam Lào qua Khe
Sanh, Bản Đông, Sê Pôn… đi hết phạm vi quản lý của 14 binh trạm 559. Đến
Trạm F470, nơi được mô tả là một khu rừng nằm cạnh sông Mekong, Đoàn
Việt Nam “bàn giao” Sihanouk cho Khmer Đỏ rồi ở đấy chờ đón ông quay về
Hà Nội.
(243) Theo lời Sihanouk kể lại với nhà báo Nayan Chanda, trong suốt
chuyến đi gần một tháng trên lãnh thổ Campuchia, Son Sen, một lãnh tụ
Khmer Đỏ, nói với ông: "Lính Việt Nam vẫn thường trộm cắp trong các
phum, hãm hiếp phụ nữ và đặt các căn cứ, tuyển quân người Khmer trợ
chiến cho họ". Còn Khiêu Samphan thì nói: “Việt Nam đang chuẩn bị lập ra
một chính phủ người Khmer nhưng phụ thuộc vào người Việt”.
(244) Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 320.
(245) Ben Kiernan, 1996, trang 48.
(246) Philip Short, 2004, trang 7.
(247) Ben Kiernan, 1996, trang 2.
(248) Sđd, trang 55.
(249) Sđd, trang 96.
(250) Ben Kiernan, 1996, trang 97.
(251) Nayan Chanda, 1993, trang 42.
(252) Sđd, trang 43.
(253) Ben Kiernan, 1996, trang 94.
(254) Ben Kiernan, 1996, trang 10.
(255) Trong loạt phóng sự đăng trên báo Giải Phóng, ba số báo đầu tháng
8-1976, một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên viết: “Nếu hơn một năm
trước đây, Phnom-Pênh tấp nập ồn ào… thì ngày nay thủ đô Chùa Tháp trở
nên vắng vẻ, yên tĩnh lạ thường. Cảnh tượng vắng lặng hầu như bất động
này bắt gặp ngay từ đêm đầu tiên chúng tôi từ ngoại ô qua cầu Mô-ni-
vông cũ vào trung tâm thành phố. Những dãy đèn điện cao áp vẫn soi ánh
mặt đường nhưng trên đường không thấy bóng người đi lại. Thỉnh thoảng
mới thấy hắt ra ánh đèn nê-ông từ các cửa sổ của một vài ngôi nhà. Ban
ngày, luớt qua các khu phố, chúng tôi cũng thấy phần lớn các dãy nhà đều
đóng cửa hoặc bỏ trống không người ở. Ở một vài góc đường gặp các chiến
sĩ cầm súng đứng gác, lâu lâu nâng bổng cây tre sơn màu đỏ trắng chặn
ngang đường cho xe chạy qua. Buổi sớm và buổi chiều vào giờ làm việc,
vài chiếc honda, năm ba chiếc ô tô vận tải đủ loại chở đầy nguời mặc áo
đen, trùm khăn rằn đỏ chạy qua đường phố, bóp còi inh ỏi khi gần đến ngã
tư... Để chúng tôi có thể hiểu được vì sao Thủ đô và các thành thị sầm
uất trở nên vắng vẻ, thưa thớt như hiện nay, các bạn Campuchia đã giới
thiệu đôi nét về tình hình vừa qua và chủ trương đưa dân về các vùng
nông thôn sản xuất... Các lãnh tụ Khmer Đỏ nói: “Các đồng chí đến nước
chúng tôi cứ coi như trong gia đình vì chúng ta từ lâu đã là bạn chiến
đấu”... Và suốt 15 ngày ở thăm đất nước Campuchia anh em, đến bất cứ nơi
nào chúng tôi cũng nhận được những tình cảm hết sức thân thiết, nồng
nhiệt của bạn. Các bạn Campuchia đã coi chúng tôi như những người anh em
một nhà đi xa mới về. Sự chăm sóc hết sức chu đáo, tỉ mỉ của bạn cho
từng bữa ăn, giấc ngủ tại chỗ cũng như trong suốt cuộc hành trình qua
tám tỉnh của đoàn làm chúng tôi vô cùng cảm động. Qua chuyến đi này,
đúng như lời của Phó Thủ Tướng Yêng Sary trong buổi chiêu đãi: “Đoàn
càng hiểu hơn nữa những tình cảm cách mạng sâu sắc và tinh thần đoàn kết
chiến đấu và hữu nghị của nhân dân Campuchia chúng tôi đối với nhân dân
Việt Nam, không có trở ngại nào có thể làm lay chuyển nổi”.
(256) Trên số báo Giải Phóng ra ngày 10-8-1976, ông Tô Quyên viết: "...
Đặc biệt, từ khi nước Campuchia dân chủ thành lập, đây là lần đầu tiên
Thủ tướng Pol Pot chính thức tiếp khách nước ngoài. Với giọng nói đầy
tình cảm, Thủ Tướng nhắc lại:“Chúng tôi dành ưu tiên cho đoàn báo chí
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc đoàn đi thăm nuớc Campuchia Dân
chủ là một sự cổ vũ đối với nhân dân chúng tôi”. … Chúng tôi rất cảm
kích nhớ mãi lời phát biểu đầy tình nghĩa của đồng chí Thủ tướng Polpot:
“Tình đoàn kết hữu nghị giữa cách mạng Campuchia và cách mạng Việt Nam,
giữa hai nước Campuchia và Việt Nam là một vấn đề vừa là chiến lược,
vừa là tình cảm thiêng liêng. Tình đoàn kết hữu nghị đó có tốt thì cách
mạng cả hai nước chúng ta mới phát triển tốt được. Không có con đường
nào khác”.
(257) Nayan Chanda, 1993, trang 82.
(258) Sđd.
(259) Hoa Quốc Phong, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí còn
không trả lời thư mời dự Đại hội Đảng lần thứ IV của Việt Nam.
(260) Theo ông Phạm Văn Trà, khi ấy đang là tham mưu trưởng sư đoàn 330:
“Cuối năm 1976… Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, Pol Pot bắt đầu
cho quân hoạt động vũ trang ở biên giới. Lúc này, Sư đoàn 4 chuyển sang
làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; Sư đoàn 8 thực hiện biểu biên chế rút
gọn, cho bộ đội phục viên, xuất ngũ hàng loạt. Trước yêu cầu tình hình
mới, Quân khu IX được trên chấp thuận cho tổ chức Sư đoàn 330 cơ động
sẵn sàng chiến đấu” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản
Quân đội Nhân dân 2009, trang 272). Theo Tướng Trà, có một số nơi đã làm
tốt hơn Quân khu IX của Tướng Lê Đức Anh, ví dụ như ở Quân đoàn II, khi
cho bộ đội ra quân, Quân đoàn giữ lại một số cán bộ khung, nhân viên kỹ
thuật và một tỷ lệ cựu binh nhất định nên khi có chiến sự chỉ cần đưa
tân binh vào, lính cũ kèm cắp lính mới, trong một thời gian ngắn là
chiến đấu tốt.
(261) Phạm Văn Trà, 2009, trang 269.
(262) Phạm Văn Trà, 2009, trang 286.
(263) Theo ông Phạm Văn Trà: “Khi bộ đội ta truy kích, địch bỏ chạy tán
loạn. Nhân dân bạn bị giam cầm trong các trại tập trung, tựa đại hạn gặp
mưa rào; xem bộ đội Việt Nam như vị cứu tinh xuất hiện, cứu sống họ.
Nhân dân bạn tha thiết mong bộ đội Việt Nam ở lại một thời gian để bà
con được nhờ. Khi bộ đội ta buộc phải rút về, hàng nghìn người dân
Campuchia nằng nặc đòi đi theo. Nhiều người vừa khóc vừa nói: Bộ đội
Việt Nam là bộ đội nhà Phật, đã sang cứu sống chúng tôi. Nay bộ đội rút
về, hãy cho chúng tôi về theo, nếu ở lại sẽ bị ăngca giết mất… Cảm
thương nhân dân bạn vô cùng, nhưng chúng tôi không thể để bà con theo về
được” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 292).
(264) Theo Tướng Phạm Văn Trà: “Khi quân Pôn Pốt tràn qua kênh Vĩnh Tế, đánh vào Ba Chúc, bà con vô cùng khiếp sợ.
Hàng nghìn người trong xã hoảng sợ kéo vào hai ngôi chùa lớn để nương
nhờ cửa Phật, hi vọng kẻ thù dù có dã man, tàn bạo mấy cũng nương tay
trước Đức Phật từ bi. Nhưng lính Pôn Pốt đã ném lựu đạn, xả súng giết
hại hàng nghìn Phật tử - phần lớn là người già, trẻ nhỏ. Một số người
trốn chạy vào các hang đá trong núi cũng bị quân Pôn Pốt sục sạo sát
hại. Sau khi tổ chức cho Sư đoàn tiêu diệt gọn gần một sư đoàn quân Pol
Pot, chiếm lại núi Phú Cường và Ba Chúc, tôi cùng một số cán bộ, chiến
sĩ đã vào các hang đá tìm cứu bà con mình. Trong hang có rất nhiều xác
chết không đầu. Thấy chúng tôi tìm vào hang, có mấy người sống sót tưởng
chúng tôi là lính Pôn Pốt, bèn quỵ sụp lạy như tế sao. Sau khi được anh
em ân cần giải thích, bà con mới trấn tĩnh, kể lại nỗi kinh hoàng ngày
15-1-1978” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 293).
(265) Ngày 25-1-1978, chiến sự trên Biên giới Tây Nam được công bố trong
cuộc họp báo do ông Ngô Điền - Vụ Trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại
Giao - chủ trì được nói ở đầu Chương.
(266) Người “chấp bút” bài diễn văn nổi tiếng này, ông Đống Ngạc, nhớ
lại: “Năm 1978, khi Pol Pot gây hấn ở Tây Nam và năm 1979, khi Trung
Quốc đánh ta ở biên giới phía Bắc, có người nói với tôi: Khi đó cậu viết
thế là mất cảnh giác”. Ngay sau ngày 30-4, khi các đồng sự khác hăm hở
theo ông Lê Duẩn vào Nam, ông Đống Ngạc được giao ngồi lại thủ Đô để
chuẩn bị, ông được dặn: “Cậu phải viết sao cho giống Bình Ngô Đại Cáo”.
(267) Bài thơ mà năm 1976 Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm, về nội dung
chỉ “văn vần hóa” tuyên bố nói trên của ông Lê Duẩn: “Bốn nghìn năm
ngoảnh lại thuở Văn Lang/ Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”.
(268) Nếu như năm 1976, khi nghe Lực lượng Công an Võ trang báo cáo nguy
cơ chiến tranh xảy ra ở vùng Biên giới ông Lê Duẩn có thể gạt đi thì năm
1977, trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương kể: “Đi khảo sát Biên giới,
chúng tôi nhận ra xung đột vũ trang không phải do cấp dưới vô kỷ luật
như Pol Pot giải thích nữa. Khmer Đỏ đã tác chiến bằng sư đoàn, cấp mà
địa phương không thể tự ý điều binh được”.
(269) Cũng trong khoảng thời gian này, Khmer Đỏ cho người sang gặp Ya
Duck, “Phó Thủ tướng thứ nhất phụ trách nội an và ngoại giao” của Fulro
(Mặt trận thống nhất đấu tranh các dân tộc bị áp bức - Front Unifié de
Lutte des Races Opprimées - thành lập năm 1964 bởi một số người dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên, người Chăm và người Khmer Krom, chống chính quyền
Sài Gòn và chính quyền Việt Nam sau năm 1975. Phong trào Fulro tan rã
năm 1992 khi 407 binh sỹ nộp vũ khí cho UNTAC tại Campuchia). Theo ông
Ya Duck: “Họ đi một đoàn hơn 10 người, nói thẳng là cần sự hợp tác để
chống Việt Nam”. Ya Duck sau đó đã sang Campuchia gặp Pol Pot và ông
được cả cố vấn Trung Quốc tiếp. Pol Pot cũng như “cố vấn Trung Quốc” hứa
sẽ giúp Fulro mọi mặt chứ không chỉ giúp đất đai làm căn cứ.
(270) Theo ông Trần Quang Cơ, nội dung của thông điệp là “Lãnh đạo Việt
nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong
khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến
hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần
thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự
thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở
phía Mỹ”.
(271) Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
(272) Khi ấy là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao Việt Nam.
(273) Hiệp định Paris ghi: “Thể theo truyền thống hào hiệp của mình, Hoa
Kỳ sẽ tham gia giúp đỡ tái thiết (Việt Nam) sau chiến tranh”. Nhưng, sau
khi đôi bên hoàn thành việc ký tắt, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ đã thỏa
thuận được với Kissinger con số viện trợ 3,250 tỷ đô-la Mỹ, ngoài ra, Mỹ
sẽ viện trợ biếu không mỗi năm 650 triệu đô-la. Kissinger còn trao cho
ông Lê Đức Thọ một bản dự thảo công hàm về việc xây dựng lại Miền Bắc,
bản chính thức đã được trao cho Việt Nam ngày 1- 2-1973.Theo Kissinger:
“Cuộc họp bắt đầu vào lúc 9:35 sáng thứ Ba, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ
vẫn thành công ngay cả tại những dịp trang trọng trong việc biến mình
thành một người rất khó chịu bằng cách yêu cầu phía Mỹ đảm bảo chắc chắn
về việc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt Nam. Tôi nói với ông ta rằng điều
đó chỉ được thảo luận thêm khi Hiệp định đã được ký kết; điều đó còn
phụ thuộc vào việc Quốc hội thông qua bản Hiệp định và việc tuân thủ
Hiệp định” (H. Kissinger, 2003, trang 429).
(274) Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
(275) Vogel, 2011, trang 281.
(276) Theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ.
(277) Council for Mutual Economic Assistance, một tổ chức thương mại của các quốc gia cộng sản.
(278) Theo Trần Quang Cơ.
(279) Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể: “Trung
Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm tỉnh Cương Sơn cùng
với đoàn tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí
đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí
đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có
lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, cả
đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ
Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu
thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm
thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì.
Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa
trở về, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, họ dọn cho đoàn cả
một chiếc bát mẻ miệng”.
(280) Bốn tháng sau đó, khi bắt được kẻ chủ mưu giết Thanh Nga - Nguyễn
Thanh Tân, đồng thời cũng chính là kẻ chủ mưu trong vụ bắt cóc con trai
nghệ sỹ Kim Cương - Cảnh sát không tìm ra bằng chứng nào liên quan tới
các “âm mưu chính trị”.
Nhưng trong phiên tòa đặc biệt xử “vụ án Thanh Nga” vào ngày 4-12-1979,
Hội đồng xét xử vẫn thêm vào phần luận tội: “Ai cũng thấy là Tân có một
ý đồ sâu xa thâm độc hơn là những điều y nhận tội... Nghệ sĩ Thanh Nga
là người có tài, có lòng yêu nước, là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt
trận văn hóa. Trước khi vụ án này xảy ra, chị đã bị bọn phản động khủng
bố. Nhưng, bất chấp sự đe dọa, nghệ sĩ Thanh Nga vẫn dũng cảm làm tròn
trách nhiệm của mình trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Trong lúc đang xảy
ra cuộc chiến đấu gay gắt giữa nhân dân ta và bọn “Bành trướng Bắc
kinh”, trong lúc người nghệ sĩ yêu nước Thanh Nga đang thủ diễn những
vai cổ vũ tinh thần yêu nước của quân đội ta sẵn sàng chiến đấu chống
bọn “Bành trướng phương Bắc”, rõ ràng hành động của bọn Tân cố ý giết
chết nghệ sĩ Thanh Nga đã gây tổn thương rất lớn và sự phẫn nộ rất lớn
trong lòng quần chúng” (Sài Gòn Giải Phóng, 6-12-1979).
(281) Lời “Bài ca tạm biệt”, một bài hát thời chiến tranh biên giới.
(282) Trong năm 1977, Tướng Nhim Ros, tư lệnh Quân Khu Tây Bắc, kiêm phó
chủ tịch Hội Đồng Nhà nước bị giết. Tiếp đó là Bộ trưởng Hu Nim. Trung
Quốc quan sát và tỏ ra muốn Khmer Đỏ bớt tàn bạo hơn. Tháng 4-1978, một
người Trung Quốc ôn hòa là Đặng Dĩnh Châu được cử tới Phnom Penh, khuyên
Pol Pot nên sử dụng Sihanouk để tranh thủ ủng hộ của dân chúng và quốc
tế; gợi ý đàm phán với Việt Nam trên nguyên tắc “chung sống hòa bình”.
Nhưng, trong những ngày Đặng Dĩnh Châu đang ở Phnom Penh, Pol Pot đưa ba
sư đoàn quân Trung ương xuống Quân Khu Đông, bắt giữ gần năm trăm cán
bộ, chủ yếu từ cấp tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng và các chi khu
trưởng, đưa tới trung tâm khủng bố Tuol Sleng. Tư lệnh Quân Khu Đông,
còn gọi là Khu 203, Đệ nhất Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước So Phim,
thông gia với Nhim Ros, cũng bị Pol Pot cho là không nên tồn tại. Giữa
tháng 5-1978, Tướng Ke Pauk, Tư lệnh Quân Khu Trung ương cho mời So Phim
tới họp. So Phim thận trọng chỉ cử đại diện đi và không ai trong số họ
trở về. Ngày 24-5-1978, Ke Pauk đưa một lữ đoàn thiết giáp tới bao vây
Bộ tư lệnh Quân Khu Đông, bắt giam các sỹ quan, So Phim trốn thoát. Viên
tướng được Bắc Kinh đánh giá cao này vẫn còn hy vọng giải tỏa những
“hiểu lầm” nên đã chạy về Phnom Penh, cho người liên lạc với Pol Pot.
Ngày 2-6-1978, khi So Phim tới điểm hẹn, thay vì gặp Pol Pot những tay
súng đã đón ông. So Phim tự sát. Vợ con ông bị giết. Lực lượng từ Quân
Khu Trung ương và Tây Nam tràn tới, tàn sát gần như toàn bộ binh lính và
thường dân sống trong các công xã Khu Đông. Con số người Khmer bị giết
bởi Pol Pot trong dịp này lên tới hơn một trăm nghìn người.
(283) Cho dù sau đó, ngày 30-11-1978, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Oakley vẫn
nói với ông Trần Quang Cơ, khi ấy đang được ông Thạch để ở lại New York
để “giữ cầu” và ngày đêm thúc giục Mỹ bình thường hóa, rằng: “Mỹ không
thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải
chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và người
di tản”, nhưng theo ông Trần Quang Cơ: “Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết
định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ
khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước
với Liên Xô”.
(284) Việt Nam ước đoán lực lượng Trung Quốc có khoảng 600 nghìn tham gia chiến dịch này.
(285) Vogel, 2011, trang 529-531.
(286) Cục trưởng Cục Tác chiến lúc bấy giờ là ông Lê Hữu Đức thừa nhận:
“Chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ở Quân khu I, trước đó, Đàm Quang Trung đã
cho tập trung súng ống vào kho, làng xã không hề chuẩn bị gì cho chiến
đấu”. Tướng Đức nói tiếp: “Trong một hội nghị quân sự, Đại tướng Văn
Tiến Dũng thừa nhận chúng ta bị bất ngờ cả mặt trận Tây Nam và phía Bắc.
Khi bắt đầu rục rịch chiến tranh, anh Văn Tiến Dũng gọi tôi tới nhà
riêng, bảo tôi lên Quân Khu II nói với anh Vũ Lập: Phải tiêu diệt được
vài đại đội, trung đội quân Trung Quốc. Khi đó có ai nghĩ Trung Quốc sử
dụng tới sáu quân đoàn để đánh ta đâu”.
(287) Theo Đại tá Hà Tám, lúc đó là trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 Biên phòng, đóng ở Lạng Sơn.
(288) Mân Lực, 1993.
(289) Mân Lực, 1993, trang (?).
(290) Vogel, 2011, trang 533.
(291) Nhân Dân, 3-3-1979.
No comments:
Post a Comment