Nhân
mùa 30/4 năm nay, sau khi nói chuyện qua phone, cựu tướng Lý Tòng Bá đã
gửi tới tòa soạn một bài ký viết tay, trong đó, tướng Bá đã viết lại tỉ
mỉ những sự thực về trận Áp Bắc, những sự thực mà một số sách báo ngoại
quốc và CS đã xuyên tạc hay bóp méo sự kiện.
Tướng Bá nguyên là người chỉ huy ĐĐ7 M113 trong trận Áp Bắc đầu năm 1963 tại Mỹ Tho, sau này là tư lệnh Sư Đoàn 23 BB.
Với
sự chấp thuận của tướng Lý Tòng Bá, bài viết này được Hải Triều viết
lại (cách hành văn) mà không sửa đổi bất cứ ý chính và chi tiết nào.
Toàn bộ nội dung bài viết vẫn được giữ nguyên vẹn. Mong là bàI viết này
giải tỏa được một phần nổi uất nghẹn của tướng Lý Tòng Bá nói riêng và
QLVNCH nói chung về những bất công và bất hạnh của quân lực trong cuộc
chiến VN.
Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
Chúng
tôi xin được giới thiệu bài viết đặc biệt này đến quý độc giả nhân ngày
30/04 bất hạnh năm nay, và chân thành cám ơn niên trưởng lý Tòng Bá/
HT, Trận Ấp Bắc được ghi vào quân sử trong cuộc chiến VN. Báo chí quốc
tế, và kể cả sách báo VC cũng nhắc nhiều về Ấp Bắc. Đó là một trong
những trận đụng độ khốc liệt quan trọng giữa Đại Đội 7 M113 của VNCH và
quân VC tại Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Nói rõ hơn, là tại mật khu Đồng
Tháp Mười thuộc miền Tây Nam Bộ của VC, cách xa quận Cai Lậy Mỹ Tho trên
dưới chỉ 10 cây số về hướng Đông Bắc.
Không
giống như những lần trước với những cuộc đụng độ cấp trung đội hay đại
đội, lần này, BTL Sư Đoàn 7 QLVNCH đã phải sử dụng cả một trung đoàn,
lần đầu tiên mở ra cuộc hành quân "Trực Thăng Vận" với một tiểu đoàn Bảo
An của tiểu khu Mỹ Tho tăng cường mà ĐĐ7 M113 của SĐ7 làm nỗ lực chính
để đối đầu với VC. Và cũng là lần đầu tiên mở rộng chiến tranh, Cộng
quân đã bất ngờ tung vào trận Ấp Bắc một lực lượng đáng kể gồm Tiểu đoàn
514 Chủ Lực Mỹ Tho, tiểu đoàn Chủ Lực Miền 263, chưa kể những thành
phần dân quân du kích khác. Lợi dụng địa thế hiểm yếu quen thuộc, Ấp Bắc
không khác gì hơn là một cái làng bỏ trống nằm giữa khu đồng ruộng ngập
nước quanh năm, chằng chịt kinh rạch, và cũng là nơi mà VC luôn có mặt
kiểm soát với nhiều lần chạm trận trong cuộc chiến 1945 - 1955, một lần
nữa tại Ấp Bắc, họ đã áp dụng lối đánh lén, phục kích, bắn sẻ để trì
hoãn thế trận và gây thiệt hại cho các cánh quân VNCH bạn trong giai
đoạn đầu, hầu có thể tập trung lực về vị trí chọn lựa với hầm hố của cái
gọi là "chiến thuật công kiên chiến", đánh cầm cự để tùy nghi khai thác
chiến quả nếu được, bằng không, khi thấy thế yếu, họ lần lượt trốn
chạy, rút nhanh theo kiểu mà họ thường nói là "chém vè" trong đêm tối,
rút lui mất da.ng. Ý đồ và hoạch định trận Ấp Bắc khi đó là vậỵ Muốn hay
không, VC đã biết lợi dụng những kẽ hở của quân VNCH mà người chỉ huy
phía ta không để ý hoặc không tiên liệu những biện pháp thích ứng... để
bất ngờ khai thác tình hình cho nhu cầu "tâm lý chiến và chính trị"
trong chủ trương một cuộc chiến tiêu hao lâu dài kiểu "tầm ăn lá", nhất
là trong thời gian đó, VC có nhu cầu phải gây lại uy tín và tinh thần
cán binh đã mất trong vài tháng trước khi tiểu đoàn 502 Chủ Lực tỉnh Sa
đéc bị tổn thất hàng trăm quân tại ranh giới Mỹ Tho - Sa Đéc trong trận
đụng độ ác liệt với Đại Đội 7 M113 vào ngày 18 tháng 2 năm 1962. Trong
trận đánh này, một nửa quân số của TĐ502 bị loại ra khỏi vòng chiến ngay
trong những giờ phút đầu tiên của trận đánh, một nửa còn lại đã phải
ngụp lặn trong cánh đồng ngập nước để tìm cách chém vè trong đêm tốị Thế
nhưng số VC định chém vè này đều bị bắt sống. Kiểm điểm tổn thất, Đại
Đội 7 M113 chỉ có một tử thương là Thượng sĩ Ninh, trung đội trưởng, và
một số binh sĩ khác bị thương. Tại sao sự tổn thất giữa hai bên chênh
lệch như thế này? Nguyên nhân, chúng ta phải hiểu là các đơn vị VC không
biết được khả năng của loại xe M113 do hãng Chrysler của Mỹ chế tạo, nó
hoàn toàn không giống loại xe được cho là những con cua lội nước, hay
"Crabe" của quân Pháp cũng do Mỹ chế tạo, được sử dụng trong đệ nhị thế
chiến, và được trang bị cho các chiến đoàn xe lội nước gọi là "GA"
(Groupement Amphilies) mà có lần bị chính tiểu đoàn 502 của VC đánh
thiệt hại nguyên một đơn vị.
Từ
những yếu tố không biết về khả năng mới - cơ động trên của M113, các
đơn vị VC đã dàn trận. Đúng như lời của một anh tù binh kể lại thì tình
thế quả không giống như lần phục kích đoàn xe "Crabe" của quân Pháp.
Những gì VC điều nghiên, dàn thế trận, chuẩn bị tinh thần cho cán binh
lâm trận... đã không xẩy ra như những gì họ hoạch định và mong đợị Chẳng
hạn xe M113 không có lần nào bị súng nhỏ bắn thủng như loại xe "crabe"
của Pháp, và cũng không một lần nào thấy bất cứ một xa đội M113 nào phải
ngừng lại từng chập để cho lính nhảy xuống gỡ gỡ rơm rạ, cỏ lúa... kẹt
trong bánh xích xe làm xe không chạy được, để nhân cơ hội này, VC bất
thần nổ súng tấn công.
Khi
thế trận bùng ra, tôi đã ra lệnh các xa đội, từng chiếc lội nước, khai
hỏa phóng thẳng ngay vào ổ phục kích của tiểu đoàn 502 đang dàn thành
đội hình bán nguyệt ở giữa ruộng nước. Mũi tiến quân xông vào vị trí
địch đang ngâm mình dưới nước, các xa đoàn M113 được đại liên và trung
liên BAR đặt trên các xuồng ba-lá bắn yểm trơ.. M113 đã tung hoành với
những khả năng đa hiệu bất ngờ ngoài dự liệu và sự hiểu biết của các cấp
quân sự VC, đã làm cho thế trận phục kích giăng bẫy của VC bị tan vỡ
thê thảm. Khi thanh toán chiến trường, không biết quân VC đã bố trí ở đó
lúc nào, nhưng trên mình của mỗi cán binh VC còn sống sót, bị bắt làm
tù binh, mỗi anh ít lắm cũng phải đeo 3,4 con đỉa, loại đỉa trâu không
nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long, no tròn đầy máu lớn bằng cỡ ngón tay
cái, muốn rức nó ra phải dùng điếu thuốc đang cháy chấm vào đầu nó...
Một anh VC được anh em binh sĩ kéo lên từ ruộng nước, đặt ngồi trên
M113. Anh ta ngơ ngẩn nhìn quanh quẩn như mất hồn. Anh ta và đồng đội đã
tham dự một trận đánh hoàn toàn không giống những gì cấp chỉ huy của
anh ta huấn thị và dạy trên sa bàn hành quân.
Nhân
viết lại những dòng này, chúng ta một lần nữa có thể nói đây không phải
là lần duy nhất mà chạm trận với QLVNCH, địch đã bị tổn thất nặng nề,
không phải chỉ có một lần, chỉ có ĐĐ7 chiến xa M113 thành đạt được song
thường ít khi giới truyền thông bạn triệt để khai thác, mà chính Neil Shehan, người phóng viên chiến trường đã viết quyển "The Bright Shining Lie"
nói về chiến tranh VN đã nhiều lần nghe nói đến. Có lần, anh theo xe
M113 với tôi trong một vài cuộc hành quân tại Mỹ Tho, nhưng những lần đó
lại không đụng độ với VC, vì thế, anh ta vẫn chưa chịu hiểu, và chưa
thất sự thật, và vẫn mang nặng tinh thần trái ngược khi đề cập tới cuộc
chiến đấu tự vệ của QLVNCH, mà thường là chỉ tìm và chú trọng tới chiến
thắng, dù lớn hay nhỏ của VC để phóng đại, cho nên mãi đến bây giờ, dù
Neil Shehan tôi coi là một người bạn quen thân, tôi cũng chẳng biết
Shehan có chủ trương hay mục đích gì... Một người chịu khó, khá thông
minh, đỗ đạt từ một Harvard nổi tiếng, thích tự do mà chỉ viết những bài
báo lập luận phê bình ác ý và không chính xác nhắm vào QLVNCH. Nhứt là
30/4/75, anh ta đã cho xuất bản quyển "The Bright Shining Lie" với những
biện luận bất công nhắm vào QLVNCH, một quân lực bị bất ngờ "ngã ngựa"
vì sự phản bội của đồng minh. Sau khi xuất bản quyển sách nói trên, có
một lần Shehan đã viết một bài khá lịch sự liên quan đến tôi trên tờ The
New Yorker, đó là bài "After the War was over" xuất bản ngày 18/11/91,
và anh ta đã gửi tặng cho tôi tờ báo đó. Phải chăng đây là lần cuối
Shehan gián tiếp muốn tôi bỏ qua những lỗi lầm mà anh ta đã viết về tôi
khi chỉ huy ĐĐ7 chiến xa M113 trong trận Ấp Bắc với những lập luận vô
căn cứ và lệch lạc khi được vài cố vấn Mỹ thời đó kể lại câu chuyện với
dụng ý bào chữa những khuyết điểm nông nổi của mình.
Sau gần 13 năm ở tù CS ra,
tôi gặp Neil Shehan một lần tại VN, đến Mỹ năm 1991, tôi gặp lại Neil
Shehan tại Las Vegas khi hắn tham dự một "convention" với sự có mặt của
tướng Powell. Đó là lần gặp mặt lâu nhứt trong đó tôi kể lại tình tiết
và sự thật của trận Ấp Bắc cho anh ta nghe: “ ...
Ngày đó, sau đêm cuối cùng, Đại Đội 7 M113 rời thị xã tỉnh Mỹ Tho đến
quận Cai Lậy, xuất phát theo đội hình hàng dọc (để giảm làm thiệt hại
lúa) hướng về mục tiêu. Đại Đội M113 ít lắm cũng đã vượt qua 2 con kinh
ngang trước khi vào vùng tiếp giáo với mật khu Bà Bèo của VC nằm dọc
theo hai bờ kinh Tổng Đốc Lộc mà Ấp Bắc là một trong những vùng ven
biên. Cùng lúc tôi nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy hành quân nhẹ đặt ở Cai
Lậy, Tiểu Khu Mỹ Tho là phải nhanh chóng đưa Đại Đội 7 M113 đến mục
tiêu, vì nơi đó đã có một chiếc trực thăng bị rơi trong cuộc đổ quân lần
đầu mà nguyên nhân có thể là lỗi vụng về kỹ thuật của phi công chứ chưa
chắc là do đạn VC bắn. Đó là chiếc H21 hình thù như quả chuối già quá
cũ gần đến ngày phế thải. Vì theo anh trung úy chỉ huy toán nhảy đợt đầu
xuống mục tiêu Ấp Bắc cho tôi biết là anh không nghe bất cứ tiếng nổ
nào lúc phi cơ đáp xuống mà chỉ nghe vài tiếng súng nhỏ sau đó. Không
lâu sau đó, ĐĐ7 M113 phải đối diện với con kinh thiên nhiên mà nông dân
địa phương gọi là "kinh lạn" không bờ ác nghiệt. Lần đầu dưới mắt tôi,
nó như một dòng nước chảy xuôi qua một bãi ruộng bằng phẳng, lởm chởm
vài bụi cỏ với lá rủ mình quặt què theo nước.. . Quả thật, nếu là một
thi sĩ, con kinh lạch trước mặt sẽ là nguồn cảm hứng của muôn bài thơ,
nhưng ở đây, nó như là khúc xương khó nuốt của những con trâu sắt M113.
Canh cánh với trách nhiệm, lo cho sự an nguy của phi hành đoàn, tôi phân
vân chưa biết phải xử trí ra sao. Có lần tôi đưa ra ý kiến lên ban cố
vấn cũng như Bộ Chỉ Huy Hành Quân là nên chỉ thị cho một cánh quân bạn
nào gần đó mở cuộc hành quân bộ đến nơi chiếc trực thăng bị rơi, dù chậm
nhưng chắc chắn hơn là sử dụng ĐĐ7 M113. Lý do là không làm sao chúng
tôi đoán biết việc vượt qua kinh lạch để tiến đến mục tiêu phải mất bao
nhiêu thời gian. Xa đội chúng tôi thay nhau từng bước mò mẫm độc bờ kinh
nhưng không lần nào cho xe băng ngang được vì lòng kinh toàn là bùn
không đáỵ Vì không hiểu và nhận ra yếu tố đặc biệt này mà phía cố vấn Mỹ
đã hiểu lầm, cho tôi là thiếu tinh thần trách nhiệm, không muốn đụng độ
với địch quân. Đó là một nhận định phiến diện, cạn cợt, không hiểu thực
trạng của địa thế chiến trường. Lối suy nghĩ và nhận định ấu trĩ ấy tôi
không hề hay biết. Đến khi qua Mỹ, đọc quyển "The Bright Shining Lie"
của N.Shehan có viết những điều ngộ nhận sai lầm đó về tôi, tôi mới
biết. Lúc đó thì quá trễ để nói lại vần đề cho rõ. Nghĩ lại, trong cảnh
đầu tắt mặt tối của tôi và anh em các xa đội, ông sĩ quan cố vấn
J.Scanlon của chúng tôi ngồi luôn trên xe với chiếc máy truyền tin,
không nhúc nhích một bước, đã nói gì với trung tá Vann, cố vấn SĐ7 đang
bay trên đầu với chiếc L19. Sau khi Scanlon đưa ống nói cho tôi, lần đầu
tiên tiếp chuyện thẳng với Vann, tôi nghe được một câu hắc búa của J.P.
Vann: - "Anh Bá! Nếu anh không cho xe qua kinh thì tôi sẽ nói cho Đại
Tướng Lê Văn Tỵ bỏ tù anh!"
Câu
nói này tôi không bao giờ quên. Lúc vừa nghe, tôi tức giận đỏ bừng cả
mặt. Tôi âm thầm tự nhủ, tại sao ông Vann này lại có thể thốt ra một câu
như vậy! Tôi thẳng thắn trả lời: "- Trung tá Vann! Tôi rất mong thấy ông
đáp xuống đây để tận mắt ông nhìn thấy những khó khăn thực tế của trận
địa và những gì chúng tôi đang làm. Bằng không, vì lý do nào đó mà tôi
phải đi ở tù, thì đó chẳng qua là vì danh dự của người lính!"
Khi
đó, trong đầu tôi bỗng thấp thoáng cái câu " 1 ngày lính là 9 ngày tù"
của ai đó đặt ra và bây giờ tôi thấy như rất đúng. Tôi nói lời chào cám
ơn Trung Tá Vann rồi cúp máỵ Theo tôi, đó là đầu dây mối nhợ của câu
chuyện "ăn thua" trong trận Ấp Bắc. Vann, một sĩ quan cố vấn, nóng nảy
quá độ, hăng say quá trớn, sợ bị qui trách nhiệm, "ăn thì OK, thua thì
đổ thừa". Mà thực ra, trong trận Ấp Bắc có gì phải quan trọng hóa việc
ăn thua, ngoài những trở ngại, những khó khăn chồng chất, chết chóc xẩy
ra khi phải đánh nhau với kẻ thù dùng du kích chiến kiểu "nói láo, đánh
lén, bắn sẻ, chém vè..." Ngày đó, trong trận cuối cùng, VC cũng đã bị
ĐĐ7 M113 đẩy lui để lại 8 xác tại chỗ, kể cả người chỉ huỵ
Không
bao giờ tôi quên những khó khăn gian khổ mà tôi và những anh em binh sĩ
thuộc quyền tưởng là không tài nào vượt qua được, kể cả lần các M113 bị
kẹt xích, kẹt bùn loay hoay giữa ruộng hơn một ngày đêm, anh em các xa
đội phải thay nhau liên tiếp móc kéo xe ra khỏi vùng nguy hiểm... Cuối
cùng, ĐĐ7 M113 cũng vượt qua được con kinh lạn ác nghiệt đó để tiến đến
mục tiêu Ấp Bắc khoảng trên dưới 4 giờ chiều. Sau khi anh trung úy chỉ
huy toán quân nhảy trực thăng đầu tiên xuống trận địa cho tôi biết tình
hình tại chỗ, tôi ra lệnh cho cố chuẩn úy Nguyễn Văn Nho (anh là cây vợt
vô địch bóng bàn của binh chủng thiết giáp) đưa trung đội I áp sát vào
mé làng Ấp Bắc để dò dẫm. Trung đội chỉ huy và các trung đội khác tiếp
theo tiến theo đội hình hàng dọc, trước khi tôi ra lệnh mở rộng đội hình
thành hàng ngang, quân VC đã bất thần nổ súng cách trung đội 1 chỉ
khoảng 50 thước, mở đầu cho trận đánh Ấp Bắc. Trong những giây phút khai
hỏa đầu tiên của địch, chuẩn úy Nguyễn Văn Nho của Trung Đội 1, Thượng
Sĩ Nguyễn Văn Hào của xe chỉ huy bị hy sinh, chưa kể một số xạ thủ đại
liên 50 của các trung đội khác vừa chết vừa bị thương. Tổng số thiệt hại
của Đại Đội 7 M113 từ phút đầu cho đến tàn trận là 8 chết và 14 bị
thương. Số thiệt hại này phần lớn do các khẩu đại liên thời đó không có
trang bị tấm chắn đỡ đạn. Sau trận Ấp Bắc, các loại lá chắn này mới thực
hiện để che đạn cho các xạ thủ đại liên M113. Nhắc lại chuyện này, tôi
vẫn phân vân thắc mắc tại sao người ta chỉ chịu trang bị thêm phương
tiện và vũ khí mới cho quân đội VNCH sau khi các đơn vị quân đội chúng
ta bị thiệt hai hay bị mất đi những chiến sĩ và cán bộ chỉ huy tài giỏi,
gan dạ vì thiếu phương tiện chiến đấu thích hợp. Chỉ riêng một yếu tố
là nếu trên xe M13, các xạ thủ đại liên có những lá chắn đạn an toàn cho
xạ thủ thì trong trận Ấp Bắc thì số thương vong của chúng ta giảm
nhiều, đồng thời ĐĐ7 M113 có thể đã đưa tiểu đoàn 514 Chủ Lực VC tỉnh Mỹ
Tho tan tác đi theo tiểu đoàn 502.
Tôi
nhớ một lần trước trận Ấp Bắc, đoán được ý đồ của VC là khi không còn
cách nào khác để mở trận mới đánh với Đại Đội 7 M113, thì họ chỉ còn dựa
vào ven làng, vào một thế đất mà chọn lựa để có thể dễ dàng gây khó
khăn cho Đại Đội 7 M113 khi bất ngờ xuất hiện từ các hầm hố kiên cố được
che khuất, tấn công khai hỏa vào các xạ thủ đại liên 50 trên xe M113
chứ không dám nằm giữa đồng ruộng phục kích như lần tiểu đoàn
502 của họ bị tiêu diệt ở tỉnh Sadec. Tiên liệu điều như trên, tôi gửi
lên cấp chỉ huy cũng như cố vấn Mỹ một đề nghị khẩn cấp và thiết thực
việc trang bị lá chắn đạn an toàn cho xạ thủ đại liên càng sớm càng
tốt... Đề nghị đó không được chấp thuận. Tướng Stilwell của phái bộ viện
trợ Mỹ đã trực tiếp trả lời cho trung tá Nguyễn Văn Thiện, nguyên chỉ
huy trưởng binh chủng Thiết Giáp ( 1957 - 1964) (*) bằng một câu mà tôi
không bao giờ quên. Câu nói nguyên văn bằng tiếng Pháp của tướng Stiwell như sau: "le meilleur moyen de défense c'est tirer."
Ờ nghĩa là "muốn bảo vệ mình, người lính chỉ có bắn!" Theo tôi, trên lý
thuyết thì quá đúng, hoặc trong phim xi-nê cao bồi, hay tại "desert
storm" với "bão
sa mạc" thì còn có lý... chứ đối với chiến tranh du kích kiểu VC trên
địa thế núi rừng, sông lạch VN thì chưa chắc câu của tướng Stilwell là
câu thần chú hộ mạng, mà trận Ấp Bắc là một thí dụ điển hình. Làm sao
chúng ta thấy được VC nằm phục kích trong nước, dưới lá, dưới sình mà
bắn trước để bảo vệ mình.
Nhắc
lại, cả một chiến đoàn gọi là GM100 của quân Pháp đã bỏ mạng tại đèo An
Khê ở Pleiku trong chiến tranh Việt Pháp trước đây đã ở trong tình
huống trên. Tôi rất may đã sống sót trong trận Ấp Bắc. Từng tràng đạn
địch "thay nhau tránh né" khi bay qua đầu tôi, một điều kỳ lạ, mãi cho
đến bây giờ tôi không biết tại sao mạng tôi còn, tại sao tôi còn sống
với hàng loạt đạn vượt qua đầu để lại những tiếng kêu "bực...bực" bên
taị. Có lần tôi đang bắn trả qua lại với đám VC đứng trong những hầm hố
không quá 20 thước trước mặt, bất ngờ tôi thấy anh đại úy J. Scanlon
đang ngồi trong M113 của tôi mở cửa sau M113 chỉ huy nhảy ra ngoài chạy
mất dạng. Trong xe chỉ huy của tôi lúc đó có xác của thượng sĩ Nguyễn
Văn Hào bị tử thương, và có lẽ lần đầu tiên anh chứng kiến tận mắt xác
chết trong xe chỉ huy, chưa kể hai người bị thương khác nằm la liệt máu
me, đó là anh Kiên, tài xế xe jeep riêng của tôi bị đạn xuyên cổ và anh
lính kèn ngả xuống sau tiếng kèn xung phong ngả xuống bên tay mặt của
tôi. Tình trạng này có lẽ đã làm cho Scanlon mất tinh thần, và đã thật
sự gây khó khăn không nhỏ cho tôi trong việc điều động đơn vi.. Thành
phần bị chết và bị thương trong những giây phút chạm súng đầu tiên phần
đông là những anh em chỉ huy trưởng xa và xạ thủ đại liên 50 chứ không
ai khác. Dĩ nhiên, trong tình huống đó, sức mạnh và đà tấn công của ĐĐ7
M113 bị yếu và khựng lại, nhứt là ở phía trước mặt tôi, giữa ĐĐ7 M113 và
mé làng chỉ là một bãi nước không biết là ruộng hay là một vũng bùn.
Nếu M113 kẹt dính ở đó thì vô cùng nguy hiểm. Trước tình huống đó, tôi
dự định cho các xa đội lui về phía sau vài chục thước để bảo đảm an toàn
hầu có thể dùng các loại pháo hỏa tập tiêu diệt mục tiêu mà tôi mới
chợt nghĩ ra, vô cùng cần thiết để giải quyết một tình huống khó khăn.
Không dùng pháo trong trường hợp này là một thiếu sót nghiêm tro.ng. Lúc
đó, kể cả cố vấn Vann cũng chỉ lo cho an ninh phi hành đoàn của chiếc
trực thăng bị rớt mà không có sáng kiến gì khác. Sau
khi việc yêu cầu cung cấp hỏa tập được đáp ứng và ban ra, nó đã vừa
tiêu diệt địch, vừa dọn đường cho một trận xung phong cuối cùng.
Từ
bộ chỉ huy hành quân nhẹ của Tiểu Khu Mỹ Tho, Trung Tá Lâm Quang Thơ,
tỉnh trưởng, lệnh cho tôi lui về phía sau 400 thước an toàn cho đơn vị
để một phi tuần 2 chiếc B26 oanh tạc mục tiêụ Cần nói rõ thêm, mỗi lần
dùng "phi pháo yểm" là mỗi làn từng đợt pháo và từng đợt phi cơ thay
nhau đánh vào mục tiêu. Thường thì VC hay nằm dọc theo mé rừng hay ven
làng trong các hầm hố kiên cố, còn nếu địa thế là vùng
núi
thì họ không nằm trên đỉnh mà lại bám các vùng yên ngựa hay bên sườn
đồi... cho nên, tại Ấp Bắc, những đợt oanh kích của 2 chiếc B26 lúc đó
chỉ có tác dụng tâm lý hơn là tiêu diệt đối phương.
Đúng
khoảng trên dưới 5 giờ chiều, sau quả bom cuối cùng mà tôi thấy rõ rời
bụng phi cơ rớt xuống giữa mục tiêu Ấp Bắc với hai cánh máy bay dường
như run rẩy báo hiệu ngày phế thải... thì Đài Độ M113 ào ạt mở đợt tấn
công lần chót, đẩy lui không khó quân VC ra khỏi các vị trí. Các toán
quân VC bị đánh bật ra khỏi vị trí đã bỏ chạy tán loạn, để lại 8 xác
chết, trong đó có cả một cấp chỉ huỵ Đúng như trong bài viết thêm của
Neil Shehan về trận Ấp Bắc trong nguyệt san "The New Yorker" với bài
"After the war was over", bài viết có đoạn : "Tối lại, quân VC có cho một
thành phần nhỏ nào đó bò về mục tiêu Ấp Bắc để tìm xác anh chỉ huy..."
Nhưng việc nói VC lén về Ấp Bắc tìm xác cũng là chuyện không thật. Làm
sao có chuyện đó khi toàn Đại Đội 7 M113 đang nằm dàn trận chờ sẵn tại
chỗ. Một tên chỉ huy VC bi tử thương là có thật, nhưng toán VC mò về lấy
xác thì không. Tôi nhớ chiều hôm đó, khoảng 6 giờ, sau khi Đại Đội 7
M113 đã hoàn toàn làm chủ tình hình và chấm dứt trận đánh, thì việc cho
một đơn vị Dù nhảy xuống cánh đồng trống phía sau lưng Đại Đội 7 là một
điều vô ích. Có một toán nhỏ quân Dù bị gió chiều bọc
cuốn
đựa lạc vào một vùng không an ninh, đã gặp một thiệt hại nhỏ, nhưng đó
quả là một thiệt hại không đáng xẩy ra và rất oan uổng. Đúng là tháng
xui ngày rủi của quân ta.
Trong
lửa đạn, trong trận đánh, cái đầu tôi với cái mũ nồi đen kỵ binh lúc
nào cũng nhoi ra khỏi M113 mà đạn mọi phía bắn ào ào tới mà cái đầu
chẳng bị trúng viên nào, làm cho tôi có cảm tưởng VC bắn rất tồi! Nhưng
chưa hết, vào sáng sớm hôm sau, vì còn ấm ức về cái vùng sâu phía trong
của mục tiêu Ấp Bắc chưa được chế ngự và lục soát kỹ, tôi đã quyết định
mở cuộc hành quân loại bỏ túi - tức là "hạ chiến" - với một thành phần
nhỏ của các xa đội tạm thời rời M113 để đánh bô.. Đến hơn nửa đường di
quân, bất ngờ không biết ai gọi mà những tràng pháo binh loại 105 ly của
phe ta không mời mà đến, thay nhau từng đợt 4 quả với 4 tiếng "bụp -
bụp - bụp - bụp" nghe từ quận Cai Lậy vọng lại báo hiệu những lần đạn
rời nòng bay đi. Những trái đạn chạm đất nổ vang, và chúng tôi mừng là
nó không rơi vào vị trí chúng tôị Có khoảng 40 trái đạn bắn đi, có trái
rơi cách chúng tôi khoảng 10 thước. Từ trong một cái hố với với máy
truyền tin PRC trên lưng, Hạ Sĩ Tòng lúng túng gọi khẩn cấp về xe chỉ
huy để chuyển lời yêu cầu của tôi yêu cầu Bộ Chỉ Huy Hành Quân cho ngưng
cuộc pháo kích vì "chúng tôi đã đầu hàng vô điều kiện!" Trong khi tôi
đang trong thế ngồi chồm hổm, đẩy mạnh lưng vào thành hố để tim bớt đập
mạnh thì anh đại úy cố vấn J. Scanlon mất tinh thần, bò quanh bò quẩn
trước mặt tôi... trông ngơ ngác như một con bê lạc bầỵ Theo tôi, nếu
cảnh đó được Neil Shehan chứng kiến và viết đầy đủ lại trong quyển "The
Bright Shining Lie" của anh ta thì chắc anh ta đáng lãnh giải "nobel" ở
Thụy Điển chứ không phải giải Pulitzer mà anh ta nhận
ở Mỹ. Cả CS , vì nhu cầu tuyên truyền chính trị, lẫn các nhà báo Mỹ, vì
thiếu chứng liệu và nhiều thiên kiến, đã viết sai sự thực, xuyên tạc sự
thực về cược chiến tự vệ anh dũng của quân dân miền Nam. Và cũng thể
theo lời yêu cầu của một số chiến hữu cựu quân nhân QLVNCH và đồng minh,
tôi đã gạn lọc trí nhớ để tìm lại những dữ kiện thật thuộc loại "đầu
dây mối nhợ" của trận Ấp Bắc mà vì lý do chính trị và nhu cầu phản
chiến, họ đã cố tình bóp méo sự thật. Tôi đã viết lại bằng tay, bằng
chính thủ bút của mình. Và như chiến trường Ấp Bắc tan hoang, khi tôi
viết xong bài này trên mấy trang giấy cuối thì dưới bàn viết của tôi là
một đống giấy nháp với cây viết "bi" đã gần hết mực "dàn trận tan tác
ngổn ngang" dưới gầm bàn. Viết bài này, tôi cũng có ý nhắc cho những ai
chưa biết sự thật, là, với chiến thắng và kinh nghiệm từ trận Ấp Bắc,
không biết bao nhiêu lần tôi đã đánh thắng những đơn vị địch quân từ các
cấp tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và cả quân đoàn của VC - bất cứ ở
đâu, từ miền Tây, miền Đông Nam phần đến Tây Nguyên, đặc biệt là hầu hết
các lần đó đều có sự hiện diện của J.P Vann, kẻ có lần đã đề nghị lên
đại tướng Lê Văn Tỵ cho tôi đi tù - và sau này, cũng chính J.P.Vann vận
động cho tôi lấy quyền chỉ huy SĐ23 BB đánh tan 3 sư đoàn VC do tướng
Bắc quân Hoàng Minh Thảo, một trong những tướng hùng hổ nhất của Bắc
Việt chỉ huỵ
Từ
những điều trên trong bài này, việc sách báo VC và Tây phương nói quân
VNCH thua trong trận Ấp Bắc là xuyên tạc, là sai sự thật. Và nếu còn
sống (**) đến hôm nay, chưa chắc J.P Vann đã cho N.Shehan viết trận Ấp
Bắc một cách thiếu sót và sai lệch. Vì đó cũng chính là cái thiếu sót
của J.P.Vann trong những phút giây đầu tiên của trận Ấp Bắc, vì ông chưa
đủ kinh nghiệm và hiểu biết về chiến tranh du kích kiểu VC. Sự thiếu
sót và thiếu kinh nghiệm đó của ông và ký giả Tây phương đã làm cho các
bài viết về trận Ấp Bắc (cũng như nhiều lãnh vực khác...) bị bóp méo và
hiểu lệch khác đi.
Cựu tướng Lý Tòng Bá ( Cựu tư lệnh sđ25 BB/Cựu tù cải tạo).
(Hải Triều đánh máy bài viết và sắp xếp hành văn với sự chấp thuận của tướng Bá)
(Hải Triều đánh máy bài viết và sắp xếp hành văn với sự chấp thuận của tướng Bá)
Ghi chú:
*
Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, sau lên Đại Tá, phục vụ tại Quân Đoàn 1 của
tướng Hoàn Xuân Lãm, là một trong hai người được tướng Nguyễn Văn Thiệu
gọi về dinh Độc Lập để gắn sao cấp tướng. Chẳng may chiếc A37 chở anh về
Sài Gòn bị ngộ nạn và mất tích.
**
Ông Vann, trong một chuyến đến thăm tướng Bá ( Sư Đoàn 23 BB) đả tử
thương trong một tai nạn máy bay tại Cao Nguyên. Chiếc trực thăng chở
ông trên quốc lộ 14 gần Chu Paọ Đại Tá Nhu chỉ huy Biệt Động Quân là
người chỉ huy cuộc tìm và thu hồi xác ông Vann và phi hành đoàn. Anh em
Biệt Động Quân cho biết không hề nghe tiếng súng khi máy bay bi rớt. Dù
đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân tai nạn, song người ta có thể dự đoán là
máy bay rớt vì trục trặc kỹ thuật chứ không phải vì đạn phòng không.
Chi tiết này ghi lại từ tướng Lý Tòng Bá qua cuộc điện đàm sáng
9/4/2001.
Hải Triều
No comments:
Post a Comment