Chương 12: Cởi Trói
***
Cho dù tuyên bố “cởi trói” của Nguyễn Văn Linh là “ngứa miệng kêu”
như ông nhận, hay là sách lược được áp dụng khi mới cầm quyền, thì sự
thật là các hoạt động văn nghệ và báo chí sau đó đã bắt đầu được đặt
trong một không gian mà tự do chỉ mở dần ra chứ không thể nào bóp lại.
Những Việc Cần Làm Ngay
Chiều chủ nhật 24-5-1987, toà soạn chuyển lên Ban Biên tập báo Nhân Dân
một phong thư, nói là của một “người đứng tuổi nhờ đưa ngay cho đồng
chí tổng biên tập”. Bảo vệ mô tả, “người đứng tuổi” đi xe Lada và có một
người cận vệ nói giọng miền Nam.
Chi tiết quan trọng nhất để Ban Biên tập báo Nhân Dân liên hệ giữa bút
danh N.V.L., ký trong thư, với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là chiếc xe
Lada. Theo nhà báo Hữu Thọ (5): “Khi ấy các ông trong Bộ Chính trị đều đi
xe Volga hết”. Sáng 25-5-1987, trên trang nhất Nhân Dân xuất hiện một
bài báo với đầu đề in chữ đậm “Những việc cần làm ngay”.
Không phải là một thông điệp chính trị như một vị nguyên thủ quốc gia,
bài báo đầu tiên của Tổng bí thư yêu cầu: “Trật tự giá cả cần phải được
tôn trọng”. Dẫn ra các “nguyên nhân bất chính” làm tăng giá như “bọn phá
hoại lâu lâu lại phao tin lên lương đổi tiền”, “nhiều địa phương, nhiều
cấp tự ý lên giá bất hợp pháp”, “nhiều cơ sở ghìm hàng gây khan hiếm
giả tạo”,… ông Linh coi lập lại trật tự giá cả “thật sự là một việc cấp
bách, cần phải làm ngay”. Ông Linh yêu cầu “các cơ quan tuyên truyền
phải chỉ đích danh những cá nhân, những cơ quan, những tổ chức làm các
việc trái với Nghị quyết Trung ương”; đòi “các cơ quan pháp luật phải
lôi các vụ việc sai trái lớn ra nghiêm trị” và đồng thời đưa kết quả xử
lý “lên các cơ quan ngôn luận cho dân biết”.
Bài báo thứ hai, đăng vào ngày 26-5-1987, của Tổng bí thư cũng chỉ nhặt
từ một thông tin đăng trong mục “Ý kiến bạn đọc” của báo Nhân Dân, số
ra ngày 21-5-1987, về việc “kho lạnh Bến Bính Hải Phòng làm hỏng 360 tấn
tỏi khô trị giá khoảng 20 triệu đồng”. Sau khi đặt câu hỏi: “Ai là
người phải chịu trách nhiệm? Hình phạt sẽ ra sao?”, Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh đã đưa ra khái niệm “im lặng đáng sợ” để chỉ thái độ bất chấp
của các cơ quan nhà nước trước “nhiều vụ việc sai phạm rất lớn do quần
chúng phát hiện” và được “báo chí từ Bắc chí Nam” đăng tải.
Một tuần sau khi N.V.L. khởi đăng “những việc cần làm ngay”, ngày
2-6-1987, báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng lại loạt bài “Vật
tư rơi vào tay ai” của báo Hàng Không Việt Nam. Đây là loạt phóng sự
điều tra của một nhóm nhà báo dũng cảm viết về tiêu cực của hai cán bộ
cấp cục, đăng trên chính tờ báo của ngành.
Bằng những tư liệu điều tra chuẩn xác, các nhà báo đã công khai danh
tánh cục trưởng và cục phó Cục Quản lý bay, nhân được tổng cục trưởng
Hàng không cấp 500 nghìn đồng để xây nhà, đã lập ra một “Ban Kiến thiết”
gồm bảy cán bộ, trong đó có một trung tá làm trưởng ban để “lo việc xây
dựng nhà riêng cho mình”. Đội xây dựng do Cục Quản lý bay lập ra đã lao
động trong vòng nửa năm mới xây xong hai ngôi nhà. Theo bài báo thì chỉ
riêng việc vận chuyển vật tư, Cục đã phải “huy động 150 chuyến xe ô tô,
tiêu hao 4.800 lít xăng”. Kết quả là “hai căn villa lớn, khá đẹp cạnh
nhau, nổi hẳn lên giữa những căn nhà thấp lè tè của cán bộ, công nhân
viên sân bay Gia Lâm”.
Loạt bài điều tra này đã được đăng phần đầu trên báo Hàng Không Việt
Nam từ ngày 7-4-1987, nhưng phần tiếp theo thì không thể đăng vì “ban
biên tập đã bị nhiều sức ép”. Ngay sau khi Nguyễn Văn Linh cho đó là sự
“im lặng đáng sợ”, một đoàn kiểm tra đã được lập ra. Báo Tuổi Trẻ ngày
7-7-1987 cho đăng kết luận của đoàn, xác nhận: “Một số cán bộ có chức có
quyền ở ngành Hàng không đã gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ
nghĩa”. Đặc biệt đoàn kiểm tra nhấn mạnh, việc cho ngưng loạt bài điều
tra là “xâm phạm quyền tự do báo chí” và tuyên bố: “Báo Hàng Không sẽ
đăng tiếp phần còn lại”.
Kể từ bài báo đầu tiên đăng ngày 26-5-1987 cho đến ngày 30-5, ngày nào
Nguyễn Văn Linh cũng có bài đăng trên mục “Những việc cần làm ngay”.
Nhịp độ này tuy có thưa ra trong tuần lễ thứ hai, nhưng trong tháng
6-1987, gần như tuần nào ông Nguyễn Văn Linh cũng gửi tới báo Nhân Dân
ít nhất là một bài báo ngắn. Hễ cứ báo Nhân Dân cho đăng “những việc cần
làm ngay” là các báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Thanh Niên và các tờ báo Đảng
tại các địa phương lại đăng lại nguyên văn trên đầu trang nhất.
Việc Tổng bí thư viết báo, nay đề nghị “quản lý giá cả”, mai đề nghị
“phải đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào ngành thương nghiệp quốc
doanh”, làm nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Trong Ban Bí thư, theo nhà
báo Hữu Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình đã can ngăn ông Linh
đừng viết nữa. Ngày 10-7-1987, ông Nguyễn Văn Linh đã công khai trả lời
sự can ngăn này (6).
Theo ông Hữu Thọ: “Ban Biên tập báo Nhân Dân quyết định phải tỏ thái độ
ủng hộ đồng chí Tổng bí thư”. Ngày 13-7-1987, báo Nhân Dân cho đăng xã
luận “Hưởng ứng những việc cần làm ngay”. Để rồi, ngay sau đó, các báo
mở chuyên mục thường xuyên và gần như bất cứ chỉ thị nào của các bộ,
ngành, địa phương cũng bắt đầu bằng khẩu hiệu “Hưởng ứng những việc cần
làm ngay” mà báo Nhân Dân đưa ra ngày 13 tháng Bảy.
Tại Sài Gòn, Thành uỷ ra nghị quyết yêu cầu các cấp uỷ, ban ngành, đoàn
thể từ thành phố đến phường, xã phải tổ chức xem xét và “xử lý ngay
những vấn đề mà đồng chí N.V.L. nêu”; các ngành, các cấp của Thành phố
“phải học tập đồng chí N.V.L. tự mình nêu ra những việc cần làm trong
ngày, tuần, tháng không chỉ trong mặt trận chống tiêu cực mà trên nhiều
lĩnh vực hoạt động khác” (7). Ngày 25-6-1987, khi sơ kết cuộc vận động, mọi
thành tích trên các lĩnh vực khác nhau đều được Thành uỷ coi là nhờ
hưởng ứng “những việc cần làm ngay” mà có (8).
Báo chí, từ chỗ đang viết những bài ca ngợi, chuyển sang “phanh phui”
những gì bị coi là tiêu cực. Những vụ việc ở “Phòng thuế quận Tư”, ở
“Tổng cục Trang bị Kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp” đã được đăng trên báo và bị
quên lãng, khi có “Những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn Linh, bắt
đầu được “cày, xới” lại. Báo chí không ngại ngần nêu đích danh cả những
uỷ viên Trung ương như Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hoá Hà Trọng Hoà.
Ngày 19-9-1987, Hội Nhà báo tổ chức hội thảo khẳng định “báo chí nhất
định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực”. Ngày 21-9-1987, Ban
Bí thư ra Chỉ thị 15, đánh giá: “Hoạt động vừa qua của báo chí chống
tiêu cực bước đầu đem lại niềm tin cho quần chúng, thúc đẩy các vụ tiêu
cực được xử lý nhanh hơn”. Ban Bí thư phê phán “một số cán bộ lãnh đạo
địa phương chưa biết sử dụng và ủng hộ báo chí làm công cụ chống tiêu
cực”. Ngày 4-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng kêu gọi báo
chí “phát huy mạnh mẽ sức mạnh của mình”.
Sau khi thuyết phục được báo giới, ông Nguyễn Văn Linh chuyển sang tìm
kiếm ảnh hưởng của mình trong giới văn nghệ. Người giới thiệu ông Linh
với văn nghệ sỹ là tướng Trần Độ (9), Trưởng Ban Văn hoá văn nghệ Trung
ương. Trần Độ lúc đó cũng đang cần sự ủng hộ của Tổng bí thư cho một
nghị quyết mà ông thai nghén nhằm “đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng
trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ”. Nghị quyết của Trần Độ về sau nổi
tiếng với tên gọi: “Nghị quyết 05”.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Nghị quyết 05, không khí dân chủ trong xã
hội đã được khởi động bởi nhiều cuộc hội thảo và, đặc biệt, cuộc đối
thoại với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Theo tướng Trần Độ thì chính ông
Nguyễn Văn Linh muốn có cuộc gặp này để ông “trực tiếp nghe tiếng nói
của anh em” văn nghệ.
Cuộc gặp giữa Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ và các
nhà hoạt động văn hoá diễn ra trong hai ngày 6 và 7-10-1987. Hơn 100 đại
biểu được coi là “tinh hoa” của giới đã về dự. Mở đầu cuộc làm việc,
Tổng bí thư chỉ nói trong chừng năm phút. Ông nêu băn khoăn, “hình như
từ sau ngày giải phóng văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn” rồi đề
nghị các nhà văn tìm nguyên nhân: có phải do có sự kiểm duyệt hay có sự
hạn chế gì? Khi thấy các nhà văn cứ vòng vo, Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh nói: “Còn rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!”.
Được Tổng bí thư mở lời, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện thừa nhận, văn
học nghệ thuật còn bị trói buộc, sự lãnh đạo văn nghệ còn thô sơ, tác
giả và tác phẩm dễ dàng bị kết án. Ông nói: “Bản án nào cũng có kỳ hạn,
mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi treo lơ lửng, có khi còn hại
đến cả con cháu”. Những người phát biểu gay gắt như Nguyễn Khắc Viện,
Dương Thu Hương đều được Tổng bí thư đứng dậy bắt tay. Thái độ của Tổng
bí thư đã đánh thức sỹ khí của những người từ lâu sống trong sợ hãi.
Hoạ sĩ Phan Kế An gọi những sai lầm đối với văn học nghệ thuật là
“Maoist”. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ chỉ trích tình trạng “một người suy
nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu”. Ông
Vũ nói: “Sự độc đoán về tư tưởng bóp chết sáng tạo, làm khô kiệt văn học
và nghệ thuật”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Chiến tranh quá dài đã
khiến chúng ta nói quá nhiều, quá sâu về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù và
gần như trong một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé, về
cha mẹ, về gia đình… Chiến tranh đã khiến cho cả giáo dục, cả văn học
nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học,
tâm lý học đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị”. Nhà phê bình
Nguyễn Đăng Mạnh ví văn nghệ sỹ như những “con chim bị trói”. Theo ông
Mạnh: “Có thời lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị
coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại”.
Trong năm mươi phút phát biểu sau cùng, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
đồng ý là phải “cởi trói” mới phát huy hết khả năng của văn nghệ sỹ. Mặc
dù thừa nhận: “Trước hết, tôi nghĩ Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong
lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ”, nhưng ông Linh
vẫn cho rằng: “Không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm.
Nghe các đồng chí nói, tôi rất thông cảm. Chính vì thông cảm mà sáng nay
tôi đã ngứa miệng kêu: hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu”.
Ông Nguyễn Văn Linh chia sẻ: “Tôi không phải là nhà văn nghệ, nhà báo
nhưng ngứa ngáy quá nên vừa rồi mới viết 'Những việc cần làm ngay'.
Nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng không phải không có những người
cho rằng: sao lại bôi đen chế độ”. Không khí cuộc gặp và phát biểu của
Tổng bí thư đã khiến cho ông Nguyễn Kiên, một nhà văn được coi là trầm
tĩnh nhất cũng phải thốt lên: “Có cảm giác là chúng ta đã bắt đầu bước
sang một thời kỳ khác” (10).
Không phải tự nhiên ông Nguyễn Văn Linh chọn báo chí, văn nghệ, thay vì
chọn hệ thống tổ chức mà ông đứng đầu để gây ảnh hưởng chính trị cho
mình. Ông Linh hiểu mình ở đâu trong bàn cờ Hà Nội. Khi mới được bầu làm
Tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh nói trước Ban Chấp hành Trung ương:
“Trước đây, Tổng bí thư thường hơn các đồng chí khác trong Bộ Chính trị
một cái đầu; nay, chúng tôi chỉ hơn kém nhau sợi tóc”.
Ông Nguyễn Văn Linh mới được bổ sung vào Bộ Chính trị tháng 6-1985 và
được cử làm thường trực Ban Bí thư từ tháng 7-1986. Cho đến khi ấy, ông
Linh chỉ thực sự có sáu tháng kinh nghiệm xử lý công việc ở tầm quốc
gia. Theo ông Trần Phương: “Sinh thời, anh Ba không đánh giá cao Nguyễn
Văn Linh” (11). Việc ông Linh bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội V
là ý kiến của chính Tổng bí thư Lê Duẩn. Tháng 12-1981, ông Nguyễn Văn
Linh bị đưa trở lại Sài Gòn làm bí thư, một chức vụ mà ông đã giữ từ năm
1945. Nhưng Sài Gòn không phải là chặng đường cuối cùng của sự nghiệp
Nguyễn Văn Linh như nhiều người lúc bấy giờ dự đoán.
Sài Gòn năm 1981 là một thành phố lớn, bộ máy công an, quân đội, báo
chí và vị trí của nó có thể đưa ảnh hưởng chính trị của người lãnh đạo
vượt ra khỏi khuôn khổ địa phương. Khác với những lần làm bí thư bí mật,
và sau nhiều năm giữ những chức vụ chỉ có danh, ông Nguyễn Văn Linh có
được trong tay một chính quyền thực sự. Cũng như Võ Văn Kiệt, ông đã
khai thác rất tốt lợi thế ấy.
Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm một thập niên sau “ngày giải phóng”, ông
Nguyễn Văn Linh cho xuất bản cuốn Thành Phố Hồ Chí Minh 10 Năm, phê phán
sự “choáng ngợp trước thắng lợi” và chỉ trích những cán bộ tiếp quản
miền Nam hồi năm 1975 là “thừa nhiệt tình và thiếu kiến thức”. Cuốn sách
- được biên soạn bởi những người thạo việc viết lách nhất của Thành uỷ
Thành phố Hồ Chí Minh, được Nhà Xuất bản Sự Thật in tới 30.200 cuốn - đã
gây được uy tín rộng rãi cho người đứng tên (12). Tuy nhiên, những gì
gây chú ý trong cuốn sách này của Nguyễn Văn Linh chủ yếu nằm trong
luồng gió “chống bệnh duy ý chí” mà ông Trường Chinh đang bắt đầu. Từ đó
cho đến Đại hội VI, Nguyễn Văn Linh gần như không có đóng góp gì thêm
cho “đổi mới” (13).
Ngay sau Đại hội VI, vừa lo lắng cho người kế nhiệm, vừa lo lắng cho sự
nghiệp thực thi những chính sách mà mình mới đưa ra, Trường Chinh nói
với Nguyễn Văn Linh: “Anh lên, công việc bề bộn, phải có người giúp
việc. Nếu anh muốn, tôi sẽ nhường Trần Nhâm, Hà Nghiệp cho anh”. Nhưng
theo Trần Nhâm, ông Linh lạnh lùng: “Tôi không muốn người ta nói tôi
được rút ra từ trong lò Trường Chinh”.
Công chúng càng ít biết đến Trường Chinh như một kiến trúc sư đổi mới
bao nhiêu, lại càng gắn vai trò này cho Nguyễn Văn Linh bấy nhiêu (14).
Nguyễn Văn Linh nắm được lợi thế đó và trong khoảng thời gian ngắn ngủi
lúc đầu, ông đã truyền được thêm cảm hứng cho đổi mới. Đặc biệt trong
những bước đi đầu nhiệm kỳ, sau khi Nguyễn Văn Linh chạm tay vào “đèn
xanh”, giới văn nghệ sỹ đã phá vỡ không ít xiềng xích mà họ đã bị tròng
vào hơn hai thập niên trước đó.
Xiềng xích “Nhân văn”
Báo chí xuất hiện ở Việt Nam chỉ ba năm sau khi người Pháp đặt chân lên
“Lục tỉnh”. Ngày 1-2-1865, tại Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký cho xuất bản Gia
Định Báo. Tiếp theo đó là sự ra đời của Phan Yên Báo, Nông Cổ Mín Đàm.
Đầu thế kỷ 20, giới phụ nữ Việt Nam cũng đã có tiếng nói riêng với tờ Nữ
Giới Chung do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút.
Báo chí miền Bắc ra đời muộn hơn (15). Nhưng, ở đây lại là nơi bắt đầu
các phong trào: Tự Lực Văn Đoàn, năm 1933; Tiểu Thuyết Thứ Bảy, năm
1934; Thơ Mới, cuối thập niên 1930… Đến năm 1939, Việt Nam có 48 nhật
báo 68 tập san và 292 tác phẩm xuất bản bằng quốc ngữ. Đi cùng văn
chương, báo chí, là âm nhạc và hội hoạ. Các tác phẩm đỉnh cao của âm
nhạc Việt Nam từng xuất hiện trong thời tiền chiến. Nhưng tháng 8-1945,
những người cộng sản cướp chính quyền. Ở đâu có đảng cộng sản cầm quyền,
ở đó bắt đầu có cách mạng về văn hoá.
Từ ngày 25 đến 28-3-1943, Ban Thường vụ Trung ương mở hội nghị tại làng
chài Võng La thuộc huyện Đông Anh, Phúc Yên, nhằm phản ứng với tình
hình trong nước và trên thế giới. Cũng trong những ngày ấy, Trường Chinh
viết Đề Cương Văn Hoá Việt Nam, nêu rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Đông
Dương: Văn hoá là một trong ba mặt trận (cùng với kinh tế, chính trị) ở
đó người cộng sản không chỉ làm cách mạng chính trị, mà còn phải làm
cách mạng văn hoá nữa.
Cũng từ năm 1943, Trường Chinh đã đưa những quan điểm này vào công cuộc
lãnh đạo các hoạt động văn hoá cứu quốc. Đây là đường lối dựa trên các
nguyên lý văn nghệ của Mao Trạch Đông: bắt văn nghệ phục vụ chính trị,
lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên
truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ. Đề cương Văn hoá
của Trường Chinh thoạt đầu chưa phải đã có khả năng chi phối, ngay cả
với những người làm “văn hoá cứu quốc”.
Tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào, tháng 8-1945, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn
Đình Thi, những nhà lãnh đạo Hội Văn hoá Cứu quốc, từng đưa ra những
quan điểm khác hẳn với Trường Chinh. Quan điểm của Nguyễn Hữu Đang và
Trường Chinh càng trở nên khác nhau hơn trong các cuộc tranh luận tại
Hội nghị Văn hoá Cứu quốc toàn quốc, tháng 10-1946. Lúc bấy giờ, Chính
phủ Hồ Chí Minh chỉ gồm một lực lượng kháng chiến ẩn náu trong rừng.
Trường Chinh vẫn đang hành xử như một nhà chính trị chứ chưa hành xử như
một người cầm quyền. Nhiều cuộc tranh luận vẫn được diễn ra dân chủ.
Nhưng, tháng 7-1948, tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ II, Hội Văn
hoá Cứu quốc đã bị giải tán để thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam theo quỹ
đạo của đường lối văn nghệ mà Mao Trạch Đông áp dụng với người Trung
Quốc. Tổng thư ký Hội Văn hoá Cứu quốc Nguyễn Đình Thi được làm phó tổng
thư ký Hội Văn nghệ.
Sau Hội nghị Việt Bắc, 1949, nơi tất cả văn nghệ sỹ kháng chiến được
triệu tập về ngồi kiểm điểm nhau suốt ba ngày. Sau “thơ không vần” của
Nguyễn Đình Thi cùng với “tranh lập thể” của Tạ Tỵ, Văn Cao trở thành
mục tiêu phê phán công khai; sau khi đưa ra khẩu hiệu “Cách mạng hoá tư
tưởng, Quần chúng hoá sinh hoạt, Kháng chiến hoá văn hoá”, Tố Hữu yêu
cầu văn nghệ sỹ, sau ba năm kháng chiến, phải loại trừ hết những gì còn
rơi rớt của cái gọi là “tiểu tư sản”. Trong số đầu tiên của Tạp chí Văn
Nghệ, Nguyễn Đình Thi gần như đã lặp lại những gì Tố Hữu nói: “Bước vào
năm thứ ba của cuộc kháng chiến, văn nghệ sỹ phải nhận rõ đường đi” (16).
Cho dù bị Nguyễn Đình Thi bỏ rơi, Nguyễn Hữu Đang vẫn cùng Trương Tửu,
Nguyễn Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Sỹ Ngọc tiếp tục tranh luận về
dân chủ và tự do sáng tác. Nhiều văn nghệ sỹ kháng chiến khác cũng tự
nhận thấy con đường của mình. Những đợt sinh hoạt chính trị này, từ
tháng 7-1948, đã đẩy hàng loạt văn nghệ sỹ bỏ về thành vì không chấp
nhận đường lối văn nghệ chủ trương phân chia giai cấp. Sau năm 1954
những người này lại đã tiếp tục đi tới Sài Gòn (17).
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đặt Việt Nam trước một khúc quanh.
Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Hoa năm 1949, mới thực sự
đẩy số phận dân tộc Việt Nam bước hẳn vào con đường cộng sản. Mao đã
giúp Hồ Chí Minh tiếp cận với Stalin, đồng thời viện trợ vũ khí và
chuyên gia để Hồ Chí Minh tiếp tục kháng chiến chống Pháp.
Chiến dịch Biên giới năm 1950 là một chiến thắng quân sự có tầm cỡ
chiến lược của quân đội tướng Giáp. Nhưng, đồng thời, cũng từ năm 1950,
biên giới phía Bắc đã được mở ra với phe xã hội chủ nghĩa và từ đây bỏ
ngỏ để các “nguyên lý cách mạng” của Mao và Stalin mặc sức tràn sang.
Đặc biệt, từ năm 1953, cung cách “chỉnh huấn, chỉnh quân” của Mao bắt
đầu được áp dụng, đặt những người kháng chiến trong đó có các văn nghệ
sỹ trong thế đương đầu với một cuộc “khủng bố” tinh thần khốc liệt.
Nếu như đầu những năm 1950, theo Nguyên Ngọc, những người kháng chiến
vẫn còn có thể hát Suối Mơ, Thiên Thai thì từ sau “chỉnh huấn, chỉnh
quân”, ở đâu cũng chỉ nói đến “đấu tranh giai cấp”. Nguyên Ngọc nhớ lại:
“Khi đó, trí thức phải tự coi mình như ‘cục phân’ (18). Tôi hai mươi mốt
tuổi chưa kịp gây ra khuyết điểm gì đành phải tự kiểm vì đã âm thầm mơ
đến yêu đương, dục vọng”.
Những văn nghệ sỹ đã nổi tiếng trước đó thì phải “bới lông tìm vết”
trong chính các tác phẩm của mình. Hoài Thanh tự phê phán tác phẩm quan
trọng nhất cuộc đời ông: Thi Nhân Việt Nam. Nguyễn Tuân xin từ “ba đứa
con tinh thần”: Chiếc Lư Đồng Mắt Của, Thiếu Quê Hương, Vang Bóng Một
Thời. Thái độ này của các bạn văn đã khiến cho những người chính trực
trong giới văn chương ngao ngán.
Cũng trong thời gian đó, lịch sử “phe xã hội chủ nghĩa” được đánh dấu
bởi cái chết của nhà độc tài Stalin ngày 5-3-1953. Ngày 17-6-1953 người
dân biểu tình tại Cộng hoà Dân chủ Đức. Các nhà văn Đức phê phán chính
sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và Nhà nước. Tháng 7-1954, ở Trung
Quốc, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
gọi chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Văn nghệ là “ lưỡi
dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng”.
Tháng 10-1954, Trần Dần, Đỗ Nhuận và Hoàng Xuân Tuỳ được cử đi Trung
Quốc viết lời bình cho phim tài liệu về Điện Biên Phủ. Họ ở lại Trung
Quốc cho đến ngày 12-12-1954, trong thời gian đó, không khí yêu cầu cải
cách dân chủ ở Trung Quốc được cho là có ảnh hưởng không ít đến Trần Dần
và Đỗ Nhuận.
Tháng 1-1955, ở Hungary, sáu mươi ba nhà văn lên tiếng phản đối chế độ
độc tài. Trong khi đó, ngày 4-3-1955, Phòng Văn nghệ quân đội do Trần
Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức thảo luận phê bình tập thơ
Việt Bắc của Tố Hữu. Cuộc thảo luận có mặt Đại tướng Nguyễn Chí Thanh,
chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Thơ cách mạng của Tố Hữu bị coi là “nhỏ”
hơn thơ Tố Hữu ngày xưa. Tố Hữu còn bị phê phán sùng bái Hồ Chí Minh.
Báo Văn Nghệ số 65 (19) còn mở “tự do diễn đàn” để thảo luận về tập thơ
Việt Bắc. Cuộc tranh luận kéo dài đến tháng 8-1955, rộng ra và chuyển
sang nhiều báo khác. Hội Văn nghệ, dưới sự lãnh đạo của Tố Hữu, tổ chức
hai buổi toạ đàm. Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông ca
ngợi Việt Bắc, coi Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ kháng chiến. Hoàng Yến
cho rằng thơ Tố Hữu ngày nay có nhiều đoạn giả tạo công thức. Hoàng Cầm
chê: thơ Tố Hữu thiếu chất sống thực tế, nhạt nhẽo, hời hợt và không đột
phá được vào một khía cạnh nào của tâm hồn.
Tháng 4-1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh
và Trúc Lâm ký bản “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, đòi
quyền tự do sáng tác và yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân
đội. Bản dự thảo sắp được thông qua, thì cuối năm 54, đầu 55, Phòng Văn
nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn
nghệ với sự có mặt của tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi thảo luận,
Trần Dần đòi trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bỏ mọi “chế độ
quân sự hiện hành” trong văn nghệ quân đội. “Nghe xong đồng chí Nguyễn
Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi
Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức,
cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng
lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản” (20).
Bị phê bình, Trần Dần viết đơn xin ra khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời
quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê, con một gia đình Thiên Chúa
giáo di cư, bất chấp sự phản đối của quân đội. Từ ngày 13-6-1955, Trần
Dần bị phạt “giữ tại trại” hơn ba tháng để kiểm thảo. Người vợ Công
giáo, con của một gia đình tư sản, không thể nào xin được việc làm trên
“thiên đường miền Bắc”(21)
Tháng 1-1956, Hoàng Cầm, Lê Đạt cho xuất bản sách dạng tạp chí có tên
là Giai Phẩm Mùa Xuân, đăng bài của Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng
Quán và bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần. Ngay lập tức, Giai phẩm bị
tịch thu. Hội Văn nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất Định
Thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự.
Trần Dần bị kết án là “đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi
ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng”. Theo lệnh của Tố Hữu, Trần Dần
và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hoả Lò, Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự
tử. Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp, hai người được thả. Ngày 7-3-1956,
báo Văn Nghệ đăng một bài viết của Hoài Thanh có tựa đề “Vạch trần Tính
chất Phản động trong bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần”.
Tháng 3-1956 tập thơ Việt Bắc vẫn được Giải Nhất Giải thưởng Văn học
của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Dư luận văn nghệ sĩ bất bình về
việc trao Giải thưởng Văn nghệ 1954-1955. Trong khi những tác phẩm có
tiếng vang trong kháng chiến thì không được giải. Ban giám khảo “tự chấm
rất nhiều giải cho mình”, trong đó có nhiều tác phẩm chưa xứng đáng của
Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Trắc, Hồ Khải
Đại,…
Cũng trong thời gian đó, tại Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô,
ngày 24-2-1956, Khrushchev cho công bố “các tội ác của Stalin”. Liên Xô
phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết dưới thời
Stalin. Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô Fadeiev tự sát (22). Ở Trung Quốc,
Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua
tiếng”. Chút ít không khí dân chủ xuất hiện.
Tháng 9-1956, khi kiểm điểm những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Hội
nghị Trung ương 10 nhấn mạnh việc “tăng cường mở rộng tự do dân chủ”.
Trường Chinh, tác giả Đề cương văn hoá Việt Nam, phải từ chức Tổng bí
thư. Người hùng Điện Biên Võ Nguyên Giáp được cử đứng ra “xin lỗi nhân
dân về những sai lầm trong cải cách”.
Giữa lúc ấy, “lãnh tụ” của khuynh hướng đòi tự do, Nguyễn Hữu Đang,
được giao tổ chức lớp học dân chủ mười tám ngày cho Hội Văn nghệ. Tại
đây, các văn nghệ sĩ đã chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo văn nghệ
của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi “thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng
và hứa hẹn sửa chữa”. Hoài Thanh viết bài “Nhận lỗi tả khuynh trong phê
bình Trần Dần”. Tháng 10-1956, Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ra thông
báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất Định Thắng. Nhưng ngày
vui đã không kéo dài. Trước đó, ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu tập I
ra đời đăng bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi. Báo Nhân Văn
số 1 (23), đã phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do,
dân chủ.
Phan Khôi là một chí sỹ chủ trương đấu tranh bất bạo động, gắn bó cuộc
đời hoạt động của mình với phong trào Duy Tân. Năm 1925, khi Phan Châu
Trinh về Việt Nam, Phan Khôi được coi như là người đón nhận “di sản tinh
thần” cụ Phan. Cùng với Trương Tửu, Phan Khôi phê phán bệnh sùng bái cá
nhân. Ông phê phán đích danh tác phong lãnh đạo văn nghệ quan liêu,
hách dịch, bè phái của Trường Chinh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình
Thi. Phan Khôi còn chỉ trích việc Hồ Chí Minh viết truyện mẫu định cho
các nhà văn viết theo. Đây là giai đoạn mà theo Trương Tửu: “Một số văn
nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi.
Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu
nặng hờn oán và uất ức… Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán
tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị
chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên” (24).
Ngày 20-10-1956, báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút ra số 1. Trong thời gian tồn tại của mình, với mười
một số, Trăm Hoa đã đăng: “Vì những sai lầm nghiêm trọng cần phải xét
lại toàn bộ Giải thưởng văn học 1954-1955”, bài “Chúng tôi đề nghị bỏ lệ
khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Trăm Hoa cũng cho công bố
Thông báo của Hội nghị Trung ương 10 về sai lầm trong Cải cách ruộng đất
và viết bài “Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được
tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước”,…
Tháng 11-1956, ở trong nước người dân ở vùng Công giáo Quỳnh Lưu, Nghệ
An, tổ chức bạo loạn. Ở Hungary, chính phủ của Thủ tướng Nagy tuyên bố
Hungary trung lập. Liên Xô đưa quân sang, các phong trào dân chủ bị dập
tắt.
Ngày 20-11-1956, Nhân Văn xuất bản số 5: Lê Đạt với bút danh Người quan
sát viết Bài Học Ba Lan Và Hungary; trong bài Hiến Pháp Việt Nam Năm
1946 Và Hiến Pháp Trung Hoa Bảo Đảm Tự do Dân Chủ Thế Nào, Nguyễn Hữu
Đang viết: “Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hungary là
vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?” (25).
Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”,
buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai
muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế
kỷ dưới thời thực dân Pháp (26).
Ngay trong ngày báo Nhân Dân công bố sắc lệnh của Hồ Chí Minh,
15-12-1956, tờ Nhân Văn số 6 bị giữ lại ở nhà in. Ngày 18-12-1956, Uỷ
ban Thành phố Hà Nội có quyết định ngưng phát hành báo Nhân Văn, Giai
Phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm, đồng thời Nhà Xuất bản Minh Đức bị
đóng cửa. Tháng 1-1957, Trăm Hoa bị đình bản. Một chiến dịch báo chí
cũng được tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm Nhân
Văn Giai Phẩm.
Cuối tháng 12-1956 Minh Đức vẫn cho ra tập san Tự Do Diễn Đàn và ngay
lập tức ấn phẩm này bị cấm. Tập san bị cấm có các bài: “Tại sao quần
chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh Văn nghệ” của Nguyễn Hữu
Đang, “Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích Chính sách” của
Phan Ngọc, “Sinh hoạt Văn hoá” của Trương Tửu và Trần Đức Thảo. Đặc
biệt, tờ Tự Do Diễn Đàn đã cho công bố bản tham luận gây chấn động Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường: “Qua sai
lầm của Cải cách ruộng đất, Xây dựng Quan điểm Lãnh đạo”. (27). Đầu năm
1957, Minh Đức còn xuất bản Sách Tết, với gần đủ mặt nhóm Nhân Văn-Giai
Phẩm.
Ngày 20-2-1957, khai mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, Trường
Chinh kêu gọi “đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày
28-2-1957, “Đại hội bế mạc. Cụ Hồ đến. Nhiều công an quá. Mấy công an đi
theo dõi mấy văn nghệ sĩ, nghe họ nói đổng về báo cáo là có kẻ phá
hoại. Nhao cả lên” (28). Thời gian này, Trường Chinh vừa bị mất chức Tổng
bí thư. Sau lời kêu gọi của ông, “bọn Nhân Văn Giai Phẩm” vẫn nhiều
người được bầu vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt
Nam và các hội thành viên.
Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch “chống phái hữu”.
Nhiều nhà văn bị phê phán như Trần Xí Hà, Đặng Thác; nữ nhà văn Đinh
Linh, người được Giải thưởng văn học Stalin, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng
sản Trung Quốc và bị bắt (29). Cũng trong thời gian ấy, nhân chuyến thăm
Liên Xô, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh. Khi ông
trở về, Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử sang Trung Quốc học
tập kinh nghiệm đấu tranh “chống phái hữu”. Tờ Nhân Dân xuất hiện nhiều
bài viết “chống phái hữu” ký tên Trần Lực, một bút danh của Hồ Chí
Minh (30).
Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công
tác Văn nghệ (31). Cuối tháng 1-1958, Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ
Nhất được tổ chức tại ấp Thái Hà (32) với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham
dự. Từ 3-3 đến 14-4-1958, cũng tại ấp Thái Hà, diễn ra Lớp học đấu tranh
tư tưởng lần Hai với 304 cán bộ văn hoá. Theo Đại tá Thái Kế Toại: “Hai
lớp học này đã dùng thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, vu cáo,
bịa đặt tội lỗi cho những thành viên nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Kết quả là
không cần điều tra người ta đã có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để
quyết định bắt họ, kỷ luật họ”.
Gần cuối ngày họp, 10-4-1958, công an Hà Nội bắt giam Nguyễn Hữu Đang,
Thuỵ An và Trần Thiếu Bảo. Ngày 4-6-1958, trước Hội nghị Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Tố Hữu, người chủ trì chiến dịch ấp
Thái Hà đã “tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm” (33). Bài
“tổng kết” của Tố Hữu được ví như một “cáo trạng”, như một “nhát gươm
chính thức kết liễu số phận Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn
học ghê gớm của một tên đao phủ” (34).
Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào
một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống
Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông
báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn” (35). Số văn nghệ sỹ, gọi là “tham gia Nhân
Văn Giai Phẩm” tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý,
khoảng 170 người (36). Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn “số bị
đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả
các lĩnh vực phải tới hàng ngàn” (37).
Người nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn thì đi cải tạo lao động trong vòng từ
ba đến sáu tháng tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã. Một số văn
nghệ sỹ phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên,
Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực… Đầu năm 1961, Phùng
Cung bị bắt, do: “Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất
mãn, chống đối, phản động”. Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những
ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là
những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả
mình (38). Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn
được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như
Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là
vô cùng đau đớn.
Theo Nguyên Ngọc: “Sau một đêm, Nguyên Hồng vứt hết chức tước, tem
phiếu, đưa gia đình về định cư ở vùng Yên Thế. Ông nói: tao không chơi
được với chúng mày nữa”. Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê Thanh Hoá. Từ đó, tác
giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim đi thồ đá, người vợ hiền của ông vừa cày
hai sào ruộng vừa xay bột làm bánh. Ba người con trai lớn thì hàng ngày
phải dậy từ ba giờ sáng, kéo ba chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi
xuống hồ cách hai cây số bán rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ bảy
cây số đi học. Vì lý lịch cha mẹ mà một người con của Hữu Loan thi đạt
điểm du học nước ngoài vẫn không được đi, những người con khác của ông
cũng không ai được vào đại học.
Tố Hữu gọi Văn Cao, tác giả của Quốc Ca, là một đảng viên mang “chủ
nghĩa cá nhân”, “chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng chính trị đối địch
và đường lối văn nghệ tư sản truỵ lạc, đã câu kết và tích cực giúp sức
cho bọn phá hoại hoạt động, làm ‘tay trong’ cho chúng” (39). Tháng
11-1959, Văn Cao “được phân công dịch sách tại garage Hội Nhà văn cùng
với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực”. Năm 1960, có hai lần ông bị
đưa đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên, tháng 8 ốm nặng,
được về. Từ đó, sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh
màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống (40).
“Văn Cao bị một ám ảnh là luôn luôn thấy có người theo dõi. Tâm trạng
bệnh tật. Càng ngày càng bất mãn” (41). Ngày 18-10-1959, Nguyễn Huy Tưởng
gặp Văn Cao: “Khổ vì tập Vạch Mặt Nhân Văn nêu tên Văn Cao từ đầu chí
cuối. Bị thành kiến. Trong khi đó thì ốm, chỗ dạ dày bị mổ thỉnh thoảng
lại đau… Phải nuôi mẹ già và một em. Khổ nhất là có một đứa con mới đẻ,
lao. Tốn vào đó. Không đi đâu được. Rơm rớm nước mắt nói: vợ lại chửa.
Vẫn phải đi làm để nuôi thân. Văn Cao phải ở nhà ẵm con. Bấn không đi
đâu được. Lo cái chết trước mặt. Thấy có nhiều khả năng để làm việc, và
thấy phải làm việc, làm một cái gì. Suốt ngày đánh đàn. Nhưng khuya, vợ
hét” (42).
Tác giả của những câu thơ:
“Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu…”
Ông Phùng Quán, đã phải mất hai thập kỷ sống bằng “cá trộm, văn chui,
rượu lủi”, có lúc đã định tự sát, không dám làm đám cưới vì không có
tiền và vì… không ai dám in tên một “tên Nhân Văn” lên… thiệp cưới.
Nguyễn Hữu Đang được coi là người Việt Nam duy nhất không hề nếm mùi
“chiến tranh chống Mỹ”. Ông bị bắt từ năm 1958, bị đưa lên một nhà tù ở
tận Hà Giang cho đến năm 1973. Năm 1930, Nguyễn Hữu Đang cũng từng bị
thực dân Pháp bắt khi hoạt động trong Hội Sinh viên thị xã Thái Bình,
một tổ chức của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (43). Khi đó, ông thoát
án giam vì chưa tới tuổi thành niên. Nhưng sau “Cách mạng”, ông đã bị
tù đày không một ngày ân xá.
Năm 1973 ra tù, Nguyễn Hữu Đang bị đưa trở lại quê cũ Thái Bình, làm
ruộng. Giữa thập niên 1985, ông lại bị bắt và bị tạm giam bốn tháng vì
“tự tiện sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà
công an đang theo dõi” (44). Nguyễn Hữu Đang - người xây đài Độc lập, để
trong ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đứng trước nhân dân tuyên ngôn về tự do
- kể từ khi được tạm tha, được “sống trong trại lợn của hợp tác xã”.
“Tội” của Nguyễn Hữu Đang là đã đích thân bán từng bộ áo quần lấy tiền
để nhóm Nhân Văn ra báo (45) đăng những ý kiến tâm huyết đề nghị Đảng xây
dựng một nền pháp trị thay cho đảng trị; đề nghị nhà nước “cần phải
chính quy hơn” (46).
Thời hoạt động công khai, Nguyễn Hữu Đang từng “ăn vận sang trọng như
công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam
Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, có thể đến bất kì một nhà tư sản
Hà Nội giàu có nào, vay vàng, tiền cho cách mạng mà những người trao
vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì” (47). Nguyễn Hữu
Đang của năm 1988, khi Phùng Quán đến Thái Bình thăm, không vợ, không
con, không cửa không nhà, rách rưới và tiều tuỵ (48).
Vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” từ lâu bị coi như là một vụ án văn chương và
gần như chỉ có số phận các nạn nhân nhà văn là được quan tâm. Trong khi
đó, theo Đại tá Thái Kế Toại: “Các đợt học tập chỉnh huấn tại các trường
Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh,
Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu
tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng
chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy. Một số sinh viên
cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành,
Hà Thúc Chỉ”.
Trong thập niên 1950, đại học Việt Nam có được những trí thức ưu tú
nhất của nền giáo dục Pháp. Giáo sư Hoàng Tuỵ đang dạy toán ở Đà Nẵng đã
ra Việt Bắc chỉ vì nghe ở đó có nhà toán học Lê Văn Thiêm bỏ Pháp về
Việt Nam theo kháng chiến. Nhiều sinh viên, giảng viên đại học chỉ mong
được nhìn thấy những trí thức tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức
Thảo.
Mô hình tự chủ đại học được Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Trương Tửu chủ
trương từ rất sớm. Người đứng đầu ngành đại học lúc đó là Tạ Quang Bửu
muốn xây dựng một nền đại học tạo cơ hội như nhau cho mọi người nhưng từ
chối thêm điểm vào đại học cho giai cấp công, nông. Quan điểm của ông
bị phê phán là “tinh hoa chủ nghĩa”. Chỉ vì ủng hộ những quan điểm này
mà Giáo sư Hoàng Tuỵ đã bị kiểm điểm tới…tám mươi cuộc.
Sau những cuộc đấu tố liên miên đó, nhiều giáo sư như Trần Đức Thảo, Lê
Văn Thiêm đã luôn bị tự kỷ ám thị. Đêm đêm, Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn
nằm dưới gậm giường vì sợ. Còn Nguyễn Mạnh Tường thì từ năm 1958 không
những bị tước hết mọi chức vụ mà hơn ba mươi lăm năm, vị luật sư tài ba
có hai bằng tiến sỹ Pháp ấy và gia đình đã phải sống trong đói khát.
Năm hai mươi hai tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ luật tại Đại học Montpellier. Một tháng sau, ông bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ văn chương. Khi Nguyễn Mạnh Tường “vinh quy”, người
Pháp đã gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong Triều Bảo Đại
nhưng ông từ chối.
Những người như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo có thể đã trở thành
những trí thức được sủng ái nếu như không lên tiếng phê bình những sai
lầm của chế độ (49).
Lúc còn học ở trường Albert Sarraut, Trần Đức Thảo đã để lại không ít
huyền thoại về sự thông minh. Ông đỗ tú tài triết học năm 1935, và năm
sau ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Superieure của Pháp. Trần
Đức Thảo tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp năm 1942, khi
mới hai mươi lăm tuổi. Ông được nhiều thế hệ trí thức Việt Nam ngưỡng mộ
từ huyền thoại “kết thúc cuộc tranh luận với nhà hiện sinh Jean-Paul
Sartre trên thế thắng”.
Sau Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã tìm gặp và đề nghị Trần Đức
Thảo về Việt Nam. Cuối 1951, sau khi lấy xong tiến sỹ, vì say mê chủ
nghĩa Marx, Trần Đức Thảo đã về nước theo hành trình Paris - London -
Praha - Moscow - Bắc Kinh - Tân Trào. Thế nhưng, khi cùng tham gia viết
về dân chủ trên báo Nhân Văn, Trần Đức Thảo đã bị Tố Hữu xếp chung với
“bọn gián điệp, phản động” (50). Báo Nhân Dân sau đó đã đăng nhiều bài
báo bôi nhọ ông (51).
Cho dù đã phải “khấu đầu tạ tội” (52) trên báo Nhân Dân, Trần Đức Thảo
vẫn bị “đưa ra khỏi biên chế” nhà nước, phải “cải tạo tư tưởng” bằng
nhiều tháng đi lao động ở Tuyên Quang, phải đi chăn bò ở nông trường Ba
Vì. Đã có những lúc triết gia nổi tiếng Paris này phải đi vác từng bao
bột mì để nhận lại vài ổ bánh mà sống (53).
Những người ưu tú nhất bị đặt ra ngoài cuộc như Lê Văn Thiêm, Nguyễn
Mạnh Tường, Trần Đức Thảo. Con cái các nhà tư sản, địa chủ, con cái của
những người bị chế độ coi là có vấn đề đều không được vào đại học. Nhưng
nền giáo dục sau Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ chịu những tổn thất
ấy. Sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, nhiều thế hệ sinh viên, học sinh Việt
Nam đã được dạy dỗ trong một nền giáo dục gần như chỉ biết vâng lời.
Nền văn học, nghệ thuật, báo chí và tinh thần tự do vừa mới định hình
hồi cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940, đang khao khát trưởng thành
thì nhận được “vết chém ngang lưng” (54). Chính trị và các tác phẩm hiện
thực xã hội chủ nghĩa bắt đầu ngự trị các chương trình giảng dạy văn
chương, nghệ thuật. Những giá trị căn bản của người Việt Nam không chỉ
bị phá vỡ ở “thượng tầng”, từ trong từng ngõ ngách làng xã, trong mỗi
gia đình cũng đã nhận được biết bao bi kịch.
Miền Nam “giải phóng”
Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu
như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được nói là để giải phóng
miền Nam đã thực sự mở mắt cho người dân miền Bắc. Tuy chính quyền miền
Nam tìm mọi cách để hạn chế báo chí đối lập, nhưng Sài Gòn trước ngày
30-4 vẫn là một nơi có luật pháp để phục vụ quyền tự do ngôn luận.
Những tờ tạp chí in bốn màu, những bộ tiểu thuyết diễm tình, đồng hồ
Seiko, máy nghe nhạc cassette, akai, tivi, tủ lạnh và những con búp bê
biết khóc được các anh bộ đội đưa về đã đánh thức nhu cầu văn hoá của
người dân miền Bắc. Miền Nam bắt đầu có vô tuyến truyền hình từ năm
1965, trước miền Bắc hơn một thập niên. Nhưng điều quan trọng là các
chương trình phát thanh, truyền hình ở miền Nam được phát đi một cách đa
dạng và phong phú.
Công cuộc giải phóng nào cũng phải mất thời gian. Những chuyển động của
điện ảnh, sân khấu, văn chương, báo chí không xuất hiện ngay sau 1975,
nhưng nó âm ỉ từ bên trong, thay đổi dần dần và căn bản.
Có lẽ vì sự thay đổi chế độ ở Sài Gòn trong ngày 30-4-1975 được tiến
hành bằng những chiếc tăng T54 thay vì bằng một hiệp định đình chiến như
Hà Nội vào năm 1954; cũng có lẽ bởi người Sài Gòn đã học được bài học
“Nhân Văn Giai Phẩm”; nên, kể từ ngày 30-4-1975, không hề có bất cứ một
nhà xuất bản, một tờ báo tư nhân nào còn hoạt động, cho dù ở Sài Gòn
trước đó có hơn hai mươi tờ nhật báo, hàng trăm tạp chí và nhà xuất bản.
Một số lớn văn nghệ sỹ, đội ngũ báo chí Sài Gòn kịp di tản trước khi
quân đội miền Bắc kéo vào. Số ở lại cho dù không phải đi cải tạo thì sự
nghiệp của nhiều người cũng coi như chấm dứt.
Ngày 23-4-1975, Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư điện vào Trung ương Cục: “Đề
nghị các anh cho chuẩn bị khẩn trương để kịp ra báo Cờ Giải Phóng ngay
từ đầu khi mới giải phóng Sài Gòn” (55). Tuy tờ Cờ Giải Phóng sau đó
không ra kịp ngày “Sài Gòn giải phóng”. Nhưng, không chỉ có hai phát
thanh viên mặc quân phục xuất hiện trên đài truyền hình vào tối
1-5-1975, một thế hệ những người viết mặc áo lính, theo các cánh quân từ
R kéo về hoặc từ miền Bắc lần lượt được điều vào, đã “cách mạng triệt
để” nền báo chí Sài Gòn, nền báo chí đã có tờ báo đầu tiên từ 110 năm
trước đó.
Ngày 1-5-1975, ông Võ Văn Kiệt triệu tập một nhóm cán bộ tuyên huấn,
báo chí gồm Tô Hoà, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thành Lê,… đến trường Petrus
Ký, nơi Đảng uỷ Đặc biệt của Uỷ ban Quân quản Sài Gòn đang tạm đóng.
Cuộc họp đi đến thống nhất, Đảng bộ Thành phố sẽ ra một tờ báo lấy tên
là Sài Gòn Giải Phóng. Tuyên huấn Trung ương Cục tạm thời làm “chủ
quản”. Lê Điền, một cán bộ của báo Nhân Dân, làm tổng biên tập. Nguyễn
Thành Lê phụ trách nội dung.
Ngày 5-5-1975, Sài Gòn Giải Phóng ra số đầu tiên, chủ yếu đăng lại
những mệnh lệnh của Uỷ ban Quân quản. Sau mười hai số báo đầu tiên, Sài
Gòn Giải Phóng được giao về cho Thành uỷ. Tổng biên tập thứ hai của báo
là ông Võ Nhân Lý, thường gọi là Bảy Lý, một người tâm phúc của ông
Nguyễn Văn Linh, có nhiều năm làm phó cho ông Linh ở Ban Tuyên huấn
Trung ương Cục. Ngoài truyền hình và phát thanh, báo chí cách mạng xuất
bản tại Sài Gòn ngay sau 30-4-1975 còn có: Giải Phóng, một tờ báo đã
từng được in ấn ở Chiến khu D, Phụ Nữ Thành Phố, 17-5-1975, Công Nhân
Giải Phóng, 28-7-1975, Tuổi Trẻ, 2-9-1975. Đội ngũ văn nghệ sỹ, báo chí
từ Việt Bắc trở về Hà Nội năm 1954 và tạo ra một phong trào “Nhân Văn”
gồm những người trở về từ một cuộc chiến tranh giành độc lập, tiếp tục
khát vọng dân chủ tự do. Còn đội ngũ từ R hoặc từ miền Bắc trở về Nam
năm 1975 đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx-Lenin. Đúng như Tố Hữu viết trong
công điện ngày 23-4-1975, họ là một thế hệ “cán bộ viết báo” (56).
Về Sài Gòn, nhiều người trong số những “cán bộ viết báo” ấy tiếp tục
làm báo với tư thế của những người chiến thắng. Những người chiến thắng
chưa muốn chấm dứt cuộc chiến “ai thắng ai” với “nguỵ quân, nguỵ quyền”,
với “tư sản mại bản”, và các “tàn dư của chế độ cũ”. Nhiều báo vẫn lấy
những bài vở được sản xuất từ bộ máy tuyên huấn R (57).
Sau khi các tờ báo quốc doanh đã hoạt động ổn định, Bí thư Đảng uỷ Đặc
biệt Uỷ ban Quân quản Võ Văn Kiệt triệu tập một cuộc họp, nêu yêu cầu:
“Thành phố cần phải cho ra một số tờ báo tư nhân”. Theo ông Tô Hoà,
người phụ trách nội dung từ số 13 của tờ Sài Gòn Giải Phóng: “Kể từ khi
từ miền Bắc trở về, tôi chưa từng nghĩ là mình lại có báo tư nhân, nhưng
tư tưởng của Sáu Dân là như vậy. Trung ương Cục và Thành uỷ bàn tới,
bàn lui cuối cùng quyết định sẽ cho ra ba tờ báo tư nhân: một tờ sẽ giao
cho nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, một tờ giao cho ông Nam Đình, tờ
thứ ba lúc bấy giờ chưa biết giao cho ai cả” (58).
Cho tới lúc đó, ông Võ Văn Kiệt và những đồng chí khác của ông như
Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chưa thực sự làm việc trong môi trường
xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp của họ là vận hành cuộc chiến tranh ở miền
Nam cả bằng đấu tranh võ trang và đấu tranh chính trị, bao gồm cả những
công cụ như biểu tình, báo chí. Họ hiểu khá rõ sự khác biệt giữa các
nhóm dân chúng miền Nam đối với chế độ mới và nhận thức được vai trò của
báo chí trong việc thuyết phục các tầng lớp dân chúng ủng hộ công cuộc
của những người cách mạng. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Ý tưởng cho ra báo tư
nhân được anh Lê Đức Thọ và anh Lê Duẩn ủng hộ”.
Thế nhưng phía “tư nhân” lại không nồng nhiệt đón nhận sáng kiến này.
Nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba vốn là những nghị sỹ đối
lập với chính quyền Sài Gòn thì nhận lời. Trong khi đó Nam Đình, một
“Việt Cộng nằm vùng”, thì từ chối. Theo ông Tô Hoà: “Nam Đình giải
thích: tôi, chính trị không biết, làm báo kiểu này trên đe dưới búa
thôi!”. Ông Tô Hoà nhận xét: “Nam Đình chỉ cần nói thế đủ thấy ông ta
hiểu chế độ mới và rất cáo già về chính trị”.
Ba tháng sau, chính quyền thuyết phục được hai nhóm nhân sỹ nhận giấy
phép ra báo tư nhân: Nhóm linh mục khuynh tả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan,
làm tờ Đối Diện trước 1975, nhận Giấy phép số 01 (59), ngày 4-7-1975, ra
tờ bán nguyệt san Đứng Dậy. Cùng ngày 4-7-1975, nhóm linh mục Trương Bá
Cần, Huỳnh Công Minh nhận Giấy phép số 02, ra tờ Công Giáo & Dân
Tộc. Phải tới ngày 22-7-1975, nhóm dân biểu đối lập Ngô Công Đức, Hồ
Ngọc Nhuận, mới nhận Giấy phép số 03 ra tờ Tin Sáng.
Ông Hồ Ngọc Nhuận nhớ lại: “Tôi và Ngô Công Đức gặp nhau sớm. Chúng tôi
cũng rất bối rối vì tình hình mới chưa hiểu sẽ như thế nào. Nhưng, đích
thân ông Võ Văn Kiệt gặp nói: Anh Sáu Thọ cũng rất sốt ruột”. Theo ông
Nhuận: “Khi tình hình chưa ổn định, chính quyền muốn có một tờ báo được
lòng quần chúng mà thân mấy ổng. Tôi hỏi: làm thì làm như thế nào? Trần
Bạch Đằng bảo: làm y như cũ”.
Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Các anh làm báo cộng sản
như… cộng sản”. Ngay từ những ngày đầu, Tin Sáng đã hăng hái tham gia
các “chiến dịch” như tập trung cải tạo, đổi tiền và đánh tư sản mại bản.
Đặc biệt, tháng 9-1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong “Đoàn
đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong
bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng,
độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa
xã hội” (60).
Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được một cách đầy đủ
bằng sự trải nghiệm. Nếu nhà văn Pháp có khuynh hướng cộng sản, A. Gide
(1869-1951), năm 1936 không tới Liên Xô thì có thể ông đã không viết
sách chỉ trích Liên Xô. Nếu Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Lan không làm báo
sau 1975 thì không thể hiểu đầy đủ “tự do báo chí” dưới thời Cộng sản.
Trước năm 1975, trong mười năm, có 360 lần tờ Tin Sáng bị tịch thu báo,
sáu lần bị đóng cửa. Nhưng, cho dù hà khắc, Sài Gòn vẫn là một chế độ
có luật pháp. Những bài báo có khuynh hướng ủng hộ Mặt trận Giải phóng
và chống Mỹ có thể bị kiểm duyệt. Nhưng một nhà báo thường viết cho
không chỉ một tờ và các chủ báo, đặc biệt là các chủ báo chính trị như
Hồ Ngọc Nhuận, thường có đôi ba tờ báo, nên chính quyền thu tờ này thì
viết lên tờ kia phản đối.
Năm 1969, khi Hồ Chí Minh từ trần, ngay giữa Sài Gòn, tờ Đất Nước dám
ra một số riêng cho “người nằm xuống”, với tất cả các bài viết trong đó
đều nói về Hồ Chí Minh, “kẻ thù” của chính quyền miền Nam. Sau Hiệp định
Paris, linh mục Trương Bá Cần còn có thể cho đăng trên tờ Đối Diện bài
viết “Hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”. Còn Giáo sư
Nguyễn Văn Trung thì viết trên tờ Đất Nước: “Cộng sản, người anh em của
tôi”. Tháng 3-1975, trên tờ Đối Diện, hai vị Linh mục Chân Tín và Nguyễn
Ngọc Lan dám vẽ bản đồ Việt Nam, đánh dấu những nơi đã nằm trong tay
quân miền Bắc rồi chú thích:
“Này anh em ơi
Quốc gia đến ngày giải phóng” (61).
“Giải phóng” xong, đội ngũ làm báo từ trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác:
một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc bị bắt do tham gia các
“tổ chức phản động”, số có may mắn được làm báo như Đối Diện, Tin Sáng
chỉ chiếm một phần rất nhỏ nhoi. Những người làm báo chí, phát thanh,
truyền hình quân đội như Phan Lạc Phúc, Tô Thuỳ Yên phải đi cải tạo từ
mười đến mười ba năm. Nhà báo Trần Tuấn Nhậm, một trong những người chủ
trương làm tờ Trình Bầy, năm 1971, khi ra tranh cử nghị sỹ đã dùng khẩu
hiệu “Chống Mỹ cứu nước” với tranh minh hoạ hình Nixon vẽ râu Hitler.
Năm 1979, ông Nhậm vượt biên nhưng bị bắt, và sau đó chết trong trại
giam Bến Sắn.
Nhà báo Nguyễn Khắc Nhân, thư ký tờ Tiền Tuyến, chỉ phải đi cải tạo một
năm nhờ có anh rể là Trưởng ban Tuyên huấn Thành uỷ Trần Trọng Tân.
Nhưng khi vừa từ trại về, ông Nguyễn Khắc Nhân đã được anh rể lấy tình
thân nói thẳng: “Cậu làm tờ báo phản động nhất miền Nam, cậu không thể
nào làm báo dưới chế độ này được”.
Chính quyền mới không có chế độ kiểm duyệt báo chí. Thậm chí khi Tin
Sáng làm công văn xin Ban Tuyên huấn đưa người tới viết xã luận và duyệt
bài, chính quyền cũng không thèm cử người. Trong khi đó, Thành uỷ lại
còn “chăm sóc về vật chất rộng rãi hơn” so với nhiều ngành nghề hoạt
động khác: “Riêng về xăng, ta đã cung cấp cho họ mỗi quý hơn 7.000 lít
năm 1979, và 5.650 lít năm 1980” (62).
Nhưng, trong nội bộ tờ báo, an ninh đã cài vào không ít đặc tình(63).
Trong một báo cáo gửi “anh Sáu Dân, anh Chín Đào”, Văn phòng Thành uỷ đã
yêu cầu: “Cơ quan an ninh cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ chặt
chẽ hơn và tinh tế hơn nữa, để nắm chắc mọi hoạt động của các đối tượng
trọng điểm trong Tin Sáng” (64). Nhiều bài viết của tờ báo này bị phát
hiện ngay khi chưa kịp lên khuôn.
Tư Trời Biển Ngô Công Đức trước 1975 dám viết bài đả kích tổng thống
Việt Nam Cộng hoà. Cũng Tư Trời Biển ấy, năm 1979, chỉ định viết bài cho
báo Tết nhân danh bà hàng xóm ước mong: “Ngày mồng Một ra đường được
gặp một nụ cười xuân, Nụ cười xuân nở trên môi anh cảnh sát” (65), đã lập
tức bị “đặc tình” tố cáo. Ngày 11-1-1979, Phòng An ninh Bảo vệ Cơ quan
Văn hoá PA 25 đã gửi công văn khẩn lên Thành uỷ, “yêu cầu xử lý” (66) Tư
Trời Biển vì cho rằng bài báo ám chỉ “xã hội ngày nay mất cả nụ cười”.
Năm 1978 tờ Đứng Dậy phải đóng cửa (67). Cuộc chơi báo tư nhân còn kéo
dài tới năm 1981. Nhưng, Hồ Ngọc Nhuận thừa nhận không làm báo ở đâu
căng thẳng như làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin Sáng là tờ nhật báo có lượng độc
giả lớn nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Bạn đọc của Tin Sáng
là một tầng lớp công chúng mà chính quyền vừa e ngại vừa muốn chinh
phục. Tháng 4-1981, tại Hội nghị Công tác Tư tưởng toàn quốc, Lê Đức Thọ
nêu một số dấu hiệu đáng lo trên tờ Tin Sáng.
Ngày 23-4-1981, Văn phòng Thành uỷ dự thảo một bản báo cáo để ông Võ
Văn Kiệt gửi Trung ương (68). Cho đến lúc này, ông Võ Văn Kiệt và Thành
uỷ vẫn muốn “tiếp tục duy trì tờ Tin Sáng với bề ngoài như hiện nay để
phục vụ một cách có lợi nhất cho yêu cầu chính trị của ta nhằm tuyên
truyền tác động một cách có hiệu quả vào một số đối tượng quần chúng mà
một tờ báo Đảng công khai thâm nhập vào khó hơn, ít tác dụng hơn” (69).
Tuy nhiên, ngay trong báo cáo ngày 23-4-1981, Thành uỷ đã lo rằng:
“Hoạt động của họ bộc lộ ý thức gây ảnh hưởng, tạo thế chính trị trong
trí thức, nhân sĩ, Việt kiều và cả trong một số cán bộ trí thức của ta”.
Cũng trong năm 1981, lực lượng Công đoàn Đoàn kết liên tục tổ chức biểu
tình ở Ba Lan, cho dù quân đội Ba Lan đã bỏ tù hàng nghìn người trong
đó có Lech Walesa và thiết quân luật trên toàn quốc. Sự kiện Công đoàn
Đoàn kết đã đặt Hà Nội trong một sự cảnh giác cao độ hơn. Thường vụ
Thành uỷ sợ rằng: “Nếu có tình hình đột biến do địch gây ra, thì Tin
Sáng có thể gây tác hại, vì những người cầm đầu này chưa phải là người
đã nhập cuộc với chế độ ta, tuy họ có thể viết nhiều bài ca ngợi chế độ,
ca ngợi chủ nghĩa xã hội” (70).
Tháng 6-1981, ông Võ Văn Kiệt đi Hà Nội. Sau khi gặp trực tiếp Tố Hữu
và ông Trường Chinh, ông Kiệt nhận rõ “thái độ với Tin Sáng” của Trung
ương là rõ ràng và ý kiến “chấm dứt hoạt động Tin Sáng” của ông Trường
Chinh phải được hiểu là một quyết định thay vì một lời gợi ý. Sáng sớm
ngày 29-6-1981, ông Võ Văn Kiệt cho mời ban lãnh đạo Tin Sáng lên gặp.
Ngô Công Đức và Dương Văn Ba đi. Ông Kiệt nói ngắn gọn: “Các anh ở Hà
Nội có ý là Tin Sáng nên ngưng. Nhưng, ngưng ngay hay kéo dài thêm một
tháng để chuẩn bị dư luận thì các anh Tin Sáng cho ý kiến”. Cả Dương Văn
Ba và Ngô Công Đức lập tức đồng ý ngưng ngay. Hồ Ngọc Nhuận khi nghe
báo lại cũng tán thành. Sau gần sáu năm làm báo cộng sản cả ba đã vô
cùng mệt mỏi. Trong một hội nghị cán bộ, diễn ra ngay trong sáng
29-6-1981, sau khi thừa nhận những đóng góp của Tin Sáng, ông Võ Văn
Kiệt giải thích: “Chúng ta đã xác định kinh tế còn năm thành phần, nhưng
văn hoá chỉ có một là văn hoá dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Đã đến lúc
tất cả những tiếng nói đều phải là tiếng nói yêu nước yêu chủ nghĩa xã
hội để chiến đấu và chiến thắng, không có tiếng nói khác được” (71).
Trong “Thư gửi bạn đọc”, đăng trong số báo “hoàn thành nhiệm vụ” ra
ngày 30-6-1981, Ngô Công Đức viết: “Chia tay, bạn đọc cũng như anh chị
em Tin Sáng đều có những ngậm ngùi của tình cảm. Nhưng chia tay ở đây để
sẽ còn gặp lại ở một vị trí mới, trong cái chiến tuyến chung của tổ
quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta” (72). Trong các “công điện mật” trao
đổi giữa Thường vụ Thành uỷ và Ban Bí thư sau ngày 29-6-1981, chính
quyền tỏ ra hài lòng với phản ứng của những người làm Tin Sáng (73).
Tờ báo bị đóng cửa nhưng đội ngũ nhà báo giàu kinh nghiệm ở đó đã được
ông Võ Văn Kiệt thu xếp đưa về các tờ báo của Thành phố như Tuổi Trẻ,
Phụ Nữ và cả tờ Sài Gòn Giải Phóng. Họ đã trở thành nòng cốt trong việc
tạo ra một môi trường báo chí thực sự trong các tờ báo của Sài Gòn, đặc
biệt là tờ Tuổi Trẻ (74). Trước đó, trong văn học, nghệ thuật cũng đã âm
thầm chuyển động. Trong những thời khắc bị đưa tới tận cùng, lịch sử, tự
thân nó, lại thai nghén những nhu cầu thay đổi. Cuối thập niên 1970 trí
thức, văn nghệ sỹ miền Bắc bắt đầu suy ngẫm về những giá trị mà họ có
thể tiếp cận ở miền Nam, qua sách báo, tivi, tủ lạnh. Trong khi tại Sài
Gòn, Vũ Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn, Thạch Phương, Trần Văn Giàu… (75) viết
sách, viết báo, lăng mạ văn nghệ sỹ miền Nam thì ở miền Bắc, thanh niên
bắt đầu tìm đọc các tác phẩm của họ. Từ trước khi chiến tranh kết thúc,
nhiều nhà văn miền Bắc đã thay đổi cách nhìn hiện thực và có không ít
người cảm thấy xấu hổ với những trang viết của mình.
Năm 1969, khi viết Dấu Chân Người Lính, thông qua bi kịch của một nhân
vật là đại đội trưởng Việt Cộng yêu một phụ nữ từng có chồng là “lính
nguỵ”, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra, có những vùng “đất giải phóng” nhưng
con người vẫn không được giải phóng. Năm 1972, khi viết Lửa Từ Những
Ngôi Nhà, Nguyễn Minh Châu cảnh báo: một người hùng trong chiến tranh,
khi trở về có thể thành người đốn mạt!
Cũng trong năm 1972, Hoàng Cát viết Cây Táo Ông Lành; Nguyễn Đỗ Phú
viết Một Đêm Đợi Tàu, đưa ra một cách tiếp cận khác về chiến tranh. Năm
1974, Ngô Văn Phú có Sẹo Đất, Vũ Tú Nam có Cảm Hứng, Nguyễn Khải có Đối
Mặt và đặc biệt Phạm Tiến Duật có Vòng Trắng, với những câu thơ mô tả
chiến tranh thật hơn:
“Khói bom lên trời thành những vòng đen
Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
Khăn tang trên đầu như một số không”.
Ở thời điểm này, những tác phẩm đó đã bị coi là có “không khí nhân văn
mới”. Cách mô tả nông thôn miền Bắc qua câu chuyện của hai người lính
trong Một Đêm Đợi Tàu đã bị Trường Chinh phản ứng. Hoàng Cát khốn khổ vì
Cây Táo Ông Lành. Lành là bí danh của Tố Hữu còn cây táo, thì ai đã
từng học phổ thông ở miền Bắc cũng đều biết cây táo đầu nhà Tố Hữu lúc
nào cũng “rung rinh quả ngọt”. Cám cảnh trước sự bầm dập của Hoàng Cát -
một thương binh cụt chân, các đồng nghiệp của ông đã nhắn Tố Hữu bằng
thơ:
“Hoàng Cát không làm gì hung
Anh Lành chớ gây điều dữ”.
Phạm Tiến Duật khi ấy, đang được “cơ cấu” làm lãnh đạo và đang nổi như
cồn với những bài thơ viết về Thanh niên xung phong, về “tiểu đội xe
không kính”, đã bị theo dõi và có nguy cơ bị bắt. May mắn cho họ là
Chiến thắng 30-4-1975 đã mang tới niềm vui như thác lũ cho các nhà lãnh
đạo để “lỗi lầm” của các văn nghệ sỹ tạm được quên đi. Nhưng đấy là một
sự thức tỉnh chứ không chỉ là những phút giây xúc động. Tiểu thuyết
Những Người Đi Từ Trong Rừng Ra và tập tiểu luận Trang Giấy Trước Đèn
của Nguyễn Minh Châu xuất bản sau năm 1975 bắt đầu cho thấy một cái nhìn
mới. Ông cho rằng: “Lâu nay ta viết về chiến tranh không thật. Ta không
viết cái thực sự xảy ra mà viết cái ta muốn nó xảy ra”.
Năm 1979, khi lý luận hoá ý kiến của Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận
Về Một Đặc Điểm Văn Hoá Nước Ta, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã
gọi điều mà Nguyễn Minh Châu phê phán là “chủ nghĩa hiện thực phải
đạo”. Bài viết của Hoàng Ngọc Hiến bị đánh tơi bời, vẫn bởi những “công
cụ” mà Tố Hữu đã sử dụng thời “Nhân Văn”. Hoàng Ngọc Hiến bị coi là “đã
xúc phạm đến máu, đến một nền văn học xây bằng máu đấu tranh cho độc lập
tự do”. Cũng trong năm 1979, đời sống văn nghệ xôn xao trước bản “Đề
dẫn” của Nguyên Ngọc. Khi Nguyên Ngọc, một nhà văn quân đội đeo quân hàm
đại tá, được đưa về trường Nguyễn Ái Quốc, ông lọt vào “mắt xanh” của
Tố Hữu. Ở thời điểm này, Tố Hữu có ý định thay thế số lãnh đạo nhà văn
từng lập công thời “Thái Hà ấp” như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi bằng
một thế hệ nhà văn “trưởng thành qua chiến tranh”. Nguyên Ngọc, người có
mười ba năm ở chiến trường miền Nam, được chọn.
Tháng 11-1978, ông được đưa về làm phó tổng thư ký kiêm bí thư
Đảng-Đoàn Hội Nhà văn. Nguyên Ngọc gần như chắc chắn có một “ghế” ở
Trung ương nếu ông thuận theo cơ cấu của Tố Hữu. Nhưng, chưa đầy hai
tháng sau khi Nguyên Ngọc nhận chức, kế hoạch này đã phá sản vì bài phát
biểu về sau gọi là bản “Đề dẫn” do Nguyên Ngọc đọc tại hội nghị đảng
viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, tổ chức tại Hà Nội ngày 10-3-1979.
Trong bài “Đề dẫn” này, sau khi đánh giá lại chặng đường gần hai mươi
năm của văn học Việt Nam là khá mờ nhạt, Nguyên Ngọc cho rằng sở dĩ có
sự “chậm trễ, thô thiển” kéo dài là do: “Phê bình, lý luận đã dung tục
hoá mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, tuyệt đối hoá hiện thực, và
kết quả là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người nghệ sĩ
phải khiếp nhược trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả
năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Nó hạ thấp
văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao
nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực”. Cũng phê phán
“chủ nghĩa hiện thực phải đạo”, nhưng Nguyên Ngọc đã vượt qua Nguyễn
Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến khi chỉ ra căn nguyên của nền văn học xoay
xở dưới trần “thượng tầng kiến trúc” của chủ nghĩa cộng sản.
Không phải tự nhiên mà Nguyên Ngọc kêu gọi trong văn học phải nhận thấy
“số phận con người”. Ông thừa nhận là đã nghĩ tới bản “Đề dẫn” này
trong chuyến đi của đoàn nhà văn Việt Nam tới Campuchia ngay sau khi
quân đội Việt Nam tràn vào thủ đô Phnom Penh, chứng kiến một đất nước
phố không có số nhà, người không có số tù. Nguyên Ngọc nói: “Hitler nói
là tàn bạo nhưng vẫn cho mỗi người tù một con số, còn Pol Pot thì không.
Ở Campuchia, nhân dân đã bị đảng cầm quyền biến thành vô danh tính. Tại
sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hoá và những cánh
đồng chết” (76).
Trong ba ngày đầu hội nghị, bản “Đề dẫn” đã tạo ra một không khí hân
hoan. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Chế Lan Viên hồ hởi còn Xuân Diệu thì nhảy
cẫng lên”. Chế Lan Viên than: “Từ lâu, ta đã có Ba Giai, Tú Xuất, Học
Lạc nhưng ta đã giết nó rồi” (77). Một người rất cứng rắn như nhà phê
bình Vũ Đức Phúc cũng phải cho rằng: “Văn học không chỉ phản ánh hiện
thực cuộc sống mà còn đi sâu vào khám phá quy luật bí ẩn của cuộc sống.
Nhưng ở nước ta có cái gì thoát khỏi đường lối của Đảng ta không? Không.
Cả khi con người đi nghỉ, khi yêu nhau… cũng thấy rõ các vấn đề đường
lối” (78).
Nhà thơ Bảo Định Giang ví dụ: “Tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 của Hội Văn
nghệ Bình Trị Thiên chỉ vì cái bìa vẽ một nhà ga không có người mà bị
đình bản, Ban Bí thư Trung ương can thiệp. Ở một tỉnh Nam Bộ, dựng lại
hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu chiến đấu đến cùng, nhưng không thắng, không
cho diễn. Tỉnh uỷ đòi tả Nguyễn Đình Chiểu phải thắng, lúc nào cũng
thắng. Vậy Nam Kỳ Khởi Nghĩa thì sao? Xô Viết Nghệ Tĩnh thì sao? Về quân
đội, không được viết ta thua. Nhưng ai đã từng tham gia chiến đấu đều
biết ta cũng thua nhiều lắm” (79).
Nguyễn Đình Thi thừa nhận người trí thức có vấn đề khi ở trong chế độ
cộng sản. Ông nói: “Bài học cho người trí thức cộng sản thật khó khăn. Ở
Trung Quốc, sau 1949, những trí thức lớn không viết được gì: Mao Thuẫn,
Ba Kim, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược. Chỉ có một người viết được là Lão Xá.
Ông là nhà văn có tài nhất Trung Quốc… (Nhưng), Lão Xá tự tử ở cầu Bắc
Hải, nơi ông bảo ông vào nghề văn. Ở chủ nghĩa xã hội có những cái ghê
gớm. Chúng ta nhìn lại, thấy mình còn may lắm” (80).
Ngày thứ ba, Tố Hữu đến. Ông cho rằng, ai không “sáng tác theo phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa”, không “hiểu hiện thực theo quan điểm
Marxist”(81) là sai. Năm 1979, nền kinh tế Việt Nam đang ở mức khốn cùng
nhưng Tố Hữu yêu cầu các nhà văn phải “nhận ra nhịp đi của lịch sử” để
thấy: “Dân tộc ta đang ở khúc chóp đỉnh, chỏm nón của thời đại” (82). Tố
Hữu đã nói về “những bế tắc của xã hội Pháp” bằng “một sự buồn và khinh
bỉ” (83).
Ngay sau khi leo lên bục phát biểu, Tố Hữu đã nói: “Cái bục này đối với
tôi cao quá, đối với anh Nguyên Ngọc thì còn cao hơn. Tôi vừa đi Cao
Bằng, nơi tôi gặp các nông dân. Đừng đứng ở đây mà phê phán hiện thực.
Cuộc sống còn cao cả hơn hư cấu”. Theo Nguyên Ngọc, Tố Hữu giận nhất là
câu “chủ nghĩa tập thể bầy đàn”. Ông dùng Khổng Tử để nhắc nhở Nguyên
Ngọc: “Những người ảo tưởng tưởng mình là nhà chính trị, đồng thời là
nhà thơ, nhà tư tưởng lớn là người điên. Ta không phải là người điên,
phải trang bị cho mình trí tuệ của thời đại, tức trí tuệ của Đảng, trí
tuệ của nhân dân” (84).
Tố Hữu phát biểu xong, Nguyên Ngọc vẫn kết luận: “Hội nghị hoàn toàn
nhất trí với đề dẫn”. Tố Hữu bước ra mặt hầm hầm. Một vài nhà văn lớn lo
lắng chạy theo. Nguyên Ngọc kể: “Tối hôm đó nhiều người cảm thấy phẫn
uất, anh em tụ lại ở trụ sở Văn Nghệ Quân Đội, số 4 Lý Nam Đế. Chế Lan
Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo tới nói: ‘Để mình dẫn Nguyên Ngọc tới nhà
anh Lành xin lỗi’. Tôi cám ơn và nói: ‘Nếu thấy cần đi tôi sẽ đi một
mình”. Sau Hội nghị đó, trong Đảng Đoàn Hội Nhà văn duy nhất chỉ có
Hoàng Trung Thông nói: “Ngọc không sai”. Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn còn
Tô Hoài, như thường lệ, lại “trốn vô bệnh viện”. Không có nỗ lực tự cởi
trói nào của giới văn nghệ có thể tồn tại trong thời gian Tố Hữu nắm
quyền (85).
Đầu thập niên 1980, môi trường văn nghệ Việt Nam còn một thời kỳ bức
bối, nhất là sau vụ bắt hai nhà thơ Hoàng Hưng và Hoàng Cầm. Nhà thơ
Hoàng Hưng bị bắt chiều ngày 17-8-1982, khi ông đến số 5 Bát Đàn gặp
Trần Thiếu Bảo, giám đốc Nhà Xuất bản Minh Đức, để lấy tập thơ Về Kinh
Bắc. Tập thơ được coi là vô giá không chỉ vì thơ mà còn vì nó được chép
tay, được minh hoạ bằng một bức “lá diêu bông” của Văn Cao và bốn phụ
bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ đội nón quai
thao, mặc áo tứ thân. Ba ngày sau, 20-8-1982, cơ quan an ninh văn hoá
bắt Hoàng Cầm. Một bản chép tay khác trước đó đã được chuyển vào Sài Gòn
cho giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Việt kiều Canada. Nhưng, nhờ cấp báo của
Dương Tường, Giáo sư Hùng đã kịp gửi lại tập thơ Về Kinh Bắc để có thể
vượt qua vòng khám hành lý ở sân bay. Tại nhà giam, Hoàng Cầm “nhận tội”
rằng, những tuyệt tác thơ tình đó của ông được làm để “chống Đảng và đả
kích chế độ”.
Theo Hoàng Hưng: Trong tập Về Kinh Bắc có ba bài thơ, Cây Tam Cúc, Lá
Diêu Bông, Quả Vườn Ổi - thường được gọi là bộ ba cây - lá - quả, được
rất nhiều thế hệ người đọc chuyền tay, và cũng không ít người diễn dịch
bài thơ như những lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng),
đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả
rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng. Năm 1974, công an Hà Nội
đã gọi Hoàng Cầm lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội
dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng. Nhưng sau 1975, Về Kinh Bắc có thêm
độc giả ở miền Nam.
Năm 1979, một số Việt kiều có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ,
trong đó dĩ nhiên có “bộ ba cây - lá - quả”. Một nữ bác sĩ xưng tên là
Cần Thơ ở Pháp đã xin Hoàng Cầm gửi cho một số bài thơ. Về sau mới biết
bà là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn
đề nghiêm trọng khi mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm
theo lời bình mang tính chống đối chính trị (86).
Cởi ra…
Đầu thập niên 1980, Đạo diễn Trần Văn Thuỷ bấm máy bộ phim tài liệu Hà
Nội Trong Mắt Ai. Bộ phim sử dụng rất nhiều tích cũ dễ khiến cho người
nay giật mình. Nhất là đoạn nói về việc “phê đơn” của bà Huyện Thanh
Quan. Bà Huyện có chồng đang làm tri huyện ở miền Trung. Một hôm, chồng
đi vắng, bà nhận đơn của “Nguyễn Thị Đào” xin được cải giá vì chồng đi
lính thú. Thương cảm cho người phụ nữ xa chồng, Bà Huyện đã mạnh dạn phê
vào đơn:
“Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai”.
Cô Đào vừa đi bước nữa thì chồng trở về, phát đơn kiện. Hậu quả là ông
Huyện bị mất chức. Trong phim, Trần Văn Thuỷ bình: “Mới biết cái máu me
văn nghệ dính vào việc quan trường gây ra nhiều sự rắc rối là thế!”.
Phim cũng nói đến Nguyễn Trãi, người cùng với em họ là Trần Nguyên Hãn
“nếm mật nằm gai” phò Lê Lợi suốt mười năm kháng chiến chống quân Minh.
Khi Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi bức tử, Nguyễn Trãi cũng bị “tạm giam”. Lê
Lợi có lần vào ngục thăm ông rồi hỏi nên viết quốc nhạc như thế nào.
Phim kể là Nguyễn Trãi đã bình thản mà rằng: “Thưa bệ hạ, thương yêu dân
chúng thì hãy làm những việc nhân đức. Đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy.
Đừng vì giận ai mà phản bội. Đó là cái gốc trường tồn nhất của quốc
nhạc!”. Ngay tại xưởng phim nơi bộ phim ra đời, lãnh đạo xưởng đã thấy
“có gì đó không ổn”. Bộ phim bị coi là “ám chỉ”.
Theo Đạo diễn Trần Văn Thuỷ: “Có lần bộ phim đã được chiếu đi, chiếu
lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại Quân uỷ Trung ương. Uỷ ban Khoa
học Xã hội đã phải tổ chức một cuộc toạ đàm, có các đại biểu của Viện
Sử học, Viện Triết học, Viện Hán Nôm cùng tham gia. Các đại biểu không
tìm ra bất kỳ một sai sót nào của phim. Nhưng, Hà Nội Trong Mắt Ai vẫn
bị cấm chiếu”.
Chiều ngày 18-10-1983, đích thân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn
Đồng đã xem Hà Nội Trong Mắt Ai. Rồi ngay sau đó, ông Phạm Văn Đồng yêu
cầu phải “tổ chức chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem”. Nhưng,
cho dù có lệnh của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hà Nội Trong Mắt Ai cũng
chỉ được chiếu trong một thời gian ngắn.
Bộ phim sau đó đã được đưa tới Văn phòng Trung ương Đảng chiếu cho ông
Trường Chinh xem. Theo Đạo diễn Trần Văn Thuỷ thì trong buổi chiếu, có
ông Lê Xuân Đồng, phó ban Tuyên huấn, người cực lực phản đối bộ phim này
và ông Đặng Xuân Kỳ, viện trưởng Viện Triết học, con trai Trường Chinh,
người rất nhiệt thành ủng hộ. Nhưng, liền sau đó, bộ phim đã “tuyệt đối
không được chiếu nữa”. Từ đó cho đến sau Đại hội VI, theo ông Thuỷ: “Vợ
mình bảo mình điên. Đồng nghiệp, cứ bảy rưỡi, tám giờ sáng là tề tựu ở
cơ quan lo xem Trần Văn Thuỷ đã… bị bắt chưa!”.
Khi ấy, hai đầu đất nước thì chiến tranh, trong mỗi con người thì đói
rét. Ở nông thôn, nông dân đã “đồng khởi” bằng những làn sóng khoán
chui. Trong các nhà máy, xí nghiệp, công nhân bắt đầu “xé rào” làm “ba
lợi ích”. Giữa năm 1983, Trường Chinh bắt đầu đi cơ sở. Tuy vẫn được coi
là một thành trì cứng rắn nhưng, từ cuối năm 1983, Trường Chinh bắt đầu
thận trọng và chịu lắng nghe hơn. Tháng 9-1985, uy tín của Tố Hữu gần
như không còn, sau thất bại của giá-lương- tiền. Tại Đại hội VI, tháng
12-1986, các đại biểu đã gạch tên ông trong phiếu bầu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Cho dù đang có vụ án “hai nhà thơ họ Hoàng”, đang có vụ
“Trần Văn Thuỷ”, trong khoảng thời gian này, giới văn nghệ sỹ bắt đầu
nuôi khát vọng thoát ra khỏi cái ngột ngạt của quan liêu cả về kinh tế
và chính trị.
Cũng như văn học, nền sân khấu xã hội chủ nghĩa cũng từng phải thể hiện
cái hoành tráng của cuộc chiến tranh. Khi chưa giành được thắng lợi,
mọi thứ hãy đang trong chờ đợi thì sự hoành tráng đó có thể che đậy được
những khao khát cá nhân. Nhưng, khi kết thúc chiến tranh, người dân
nhận ra những điều mà họ chấp nhận hy sinh tuổi xuân để chiến đấu cho,
không tới.
Những người cầm quyền có lương tâm cũng cảm thấy đắng cay còn nhân dân
thì thất vọng. Trước thực tế đó, nghệ thuật tuyên truyền càng được huy
động, tưởng có thể che đậy những khát khao rất cụ thể của nhân dân, hoá
ra lại càng giúp con người nhận ra sự chơi vơi, trống rỗng. Chiến thắng
mà không thấy gì cho mình. Theo nhà phê bình sân khấu Ngô Thảo: “Giữa
lúc ấy thì các đoàn kịch, cải lương từ miền Nam ra, dựng sân khấu diễn
khắp hang cùng ngõ hẻm miền Bắc. Những Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu với từng
số phận hiện ra rất rõ, tuy có vẻ như bế tắc nhưng thật con người. Dân
chúng đổ xô đi xem. Các đoàn ca, kịch miền Bắc mất dần khán giả”.
Khác với văn học, sự thất bại trong sân khấu bao gồm cơm áo của cả một
đội ngũ. Đời sống bức bách buộc các đoàn nghệ thuật sân khấu phải chòi
đạp. Cái gì bắt đầu từ cuộc sống thì cũng mang theo chính hơi thở của
nó. Có thể nói là trong các hoạt động nghệ thuật đòi dân chủ hoá xã hội,
sân khấu đã đi đầu. Cuối năm 1985, trong Hội diễn Sân khấu tại Sài Gòn,
các đoàn miền Bắc đưa vào năm vở kịch, được ví với “năm cỗ xe tăng” của
tinh thần dân chủ (87).
Theo Ngô Thảo: “Nhân Danh Công Lý đã bị duyệt đi duyệt lại nhiều lần.
Mùa Hè Ở Biển thì tới phút cuối Đoàn Nam Định mới được Tỉnh uỷ cho phép
dự hội diễn. Quân đội lúc đầu cũng định không cho Đoàn chèo Tổng cục Hậu
cần diễn Bài Ca Giữ Nước. Báo Nhân Dân có bài gay gắt ‘đánh’ Hồn Trương
Ba Da Hàng Thịt và Hà Mi Của Tôi, còn Hình Và Bóng thì bị cấm”.
Cho dù không phải là tác giả của đường lối đổi mới Đại hội VI, nhưng
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với những tuyên bố nồng nhiệt ban đầu đã tạo
ra nhiều cảm hứng dân chủ hoá cho một xã hội đã bị trói buộc khá lâu
trong vòng bao cấp.
Tháng 5-1987, phim Hà Nội Trong Mắt Ai được chuyển tới Nguyễn Văn Linh.
Theo ông Trần Trọng Tân, khi ấy ông vừa được điều từ Campuchia về làm
trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trần Văn Thuỷ đưa phim Hà Nội Trong
Mắt Ai cho ông. Ông Tân nói: “Coi xong thấy hay quá, tôi hỏi Thuỷ: sao
phải đưa tôi coi? Thuỷ nói: Trên không cho chiếu. Tôi về hỏi người giúp
việc thì được anh cho biết: Cụ Trường Chinh nói phim này ám chỉ nên
không cho phát hành. Khi đó, tôi tính, mình mới về nếu mình cũng cấm thì
không hay mà mình nói cho thì… tế nhị nên điện thoại cho anh Nguyễn Văn
Linh: Anh rảnh mời anh coi cái phim của anh Thuỷ. Tôi coi thấy hay
nhưng trước đây, anh Trường Chinh đã không cho chiếu. Anh Linh thu xếp
coi, xong anh bảo: Hay! Cứ cho chiếu, còn giữa tôi và anh Trường Chinh
thì để tôi lo”.
Theo ông Trần Văn Thuỷ thì sau đó Ban Văn hoá Văn nghệ của Trần Độ cũng
đã làm khá bài bản. Theo chỉ thị của Tổng bí thư, Ban triệu tập một
buổi chiếu Hà Nội Trong Mắt Ai cho tất cả những người có trách nhiệm về
quản lý văn hoá, văn nghệ, tổng thư ký các hội văn học, nghệ thuật xem
và bỏ phiếu. Vì Tổng bí thư đã khen, “100% người xem bỏ phiếu thuận”.
Ngày 25-9-1987, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản truyền đạt ý kiến
của Ban Bí thư, chỉ thị Ban Tuyên huấn, Bộ Văn hoá phổ biến rộng rãi Hà
Nội Trong Mắt Ai. Tháng 3-1988, tại Liên hoan Phim Việt Nam ở Đà Nẵng,
Hà Nội Trong Mắt Ai đoạt một lúc bốn giải thưởng: Bông sen vàng cho phim
tài liệu, Biên kịch xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Quay phim
xuất sắc nhất.
Đổi mới cũng đã thực sự “cởi trói” cho lĩnh vực sân khấu. Những vở kịch
gai góc không còn có số phận long đong như trước đây. Những Tào Mạt,
Xuân Trình, Doãn Hoàng Giang, và đặc biệt, Lưu Quang Vũ, nhanh chóng trở
thành những ngôi sao của sân khấu.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948. Năm 1965, Vũ khai gian tuổi để vào bộ đội.
Tuy nhiên, môi trường quân đội mà anh trải qua đã không lý tưởng như
những gì mà anh tưởng tượng khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Máu văn
nghệ và kỷ luật quân đội là hai “phạm trù” mâu thuẫn. Là lính thợ sửa
máy bay ở sân bay Bạch Mai, trong khi, người yêu của anh, diễn viên điện
ảnh Tố Uyên nổi tiếng và xinh đẹp, thì đang ở Hà Nội:
“Không có em anh cũng chẳng là anh
Biết ơn bàn tay chỉ sắc màu hạnh phúc
Em là rễ nối liền anh với đất
Lại là chồi nở búp đón sương mai”.
Vũ thường xuyên trốn về gặp Tố Uyên và kết quả là năm 1970, Lưu Quang Vũ bị loại ngũ vì liên tục vi phạm kỷ luật.
Trở về thành phố, không sổ gạo, không hộ khẩu, Lưu Quang Vũ được Tạ
Đình Đề (88) đưa về làm ở xưởng cao su Đường sắt. Rồi, có lúc làm sửa lỗi
chính tả ở Nhà Xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường,
làm bích báo, vẽ pano, khẩu hiệu. Năm 1978 Vũ được cha là nhà viết kịch
Lưu Quang Thuận can thiệp cho về Tạp chí Sân Khấu. Ở đây, anh được Đạo
diễn Phạm Thị Thành đặt hàng viết một vở kịch về Lý Tự Trọng. Và Vũ đã
viết vở kịch đầu tay của anh: Mãi Mãi Tuổi 17.
“Cởi trói” đã biến Lưu Quang Vũ trở thành nhà viết kịch đắt hàng nhất.
Những tràng vỗ tay của khán giả khi xem kịch Lưu Quang Vũ đã đưa các
trưởng đoàn kịch từ khắp các tỉnh thành phải về “ăn dầm nằm dề” ở nhà
anh để chờ kịch bản.
Năm mươi vở kịch đã được Lưu Quang Vũ viết, chủ yếu trong những năm
giữa thập niên 1980. Nếu như sân khấu đã gây dấu ấn ở Hội diễn 1985 thì
Hội Nhà văn lúc đó lại “gần như dửng dưng với đổi mới”. Tờ báo Văn Nghệ
cho tới đầu năm 1987 ế tới mức không còn tiền mua giấy. Tổng Biên tập
Đào Vũ gửi thư cho Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương tuyên bố đóng cửa tờ
báo.
Trưởng ban Trần Độ không chấp nhận đóng cửa Văn Nghệ, thúc giục Hội
phải nhanh chóng tìm người thay thế. Trong một cuộc họp nội bộ, nhà văn
Nguyễn Minh Châu đề nghị “mời Nguyên Ngọc”. Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu
gặp Trần Độ báo cáo. Trần Độ thúc Hội làm thủ tục ngay để điều Nguyên
Ngọc về nhưng Nguyễn Đình Thi cứ chần chừ cho đến khi tướng Trần Độ cử
người đến Hội yêu cầu.
Tháng 6-1987, Nguyên Ngọc có quyết định về làm tổng biên tập tờ Văn
Nghệ. Khi đó, tờ báo này đã “đình bản” liên tục bốn số liền, Võ Văn Trực
và Ngô Ngọc Bội đang chuẩn bị cho ra một tờ “bốn số gộp”. Bản thảo số
báo này có truyện ngắn Tướng Về Hưu, một truyện ngắn được gửi tới báo
Văn Nghệ từ khá lâu, tác giả của nó khi đó chưa ai biết đến.
Ngô Ngọc Bội cho rằng đó là một truyện ngắn hay, nhưng Tổng Biên tập
Đào Vũ mấy lần xếp lại. Theo Nguyên Ngọc, khi biết ông sẽ về thay thế
Đào Vũ, Võ Văn Trực có tham khảo ông và ông đã khuyến khích Võ Văn Trực
cho đăng. Tướng Về Hưu ngay sau khi công bố đã định danh một nhà văn tài
năng: Nguyễn Huy Thiệp. Cuộc tranh luận về Tướng Về Hưu trên nhiều diễn
đàn ngay sau đó đã làm cho Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng và tờ Văn Nghệ
được chú ý hơn.
Ông Nguyên Ngọc kể: “Nhận chức, tôi họp anh em nói, báo Văn Nghệ hơn
các báo ở chỗ có chất văn, nhưng đã báo thì phải có tính chiến đấu. Muốn
lôi cuốn độc giả thì phải đưa đời sống vào báo, phải làm sống lại mảng
phóng sự văn học, lấy phóng sự làm mặt trận chính của báo”.
Phóng sự đầu tiên gây xôn xao trên báo Văn Nghệ viết về ông Nguyễn Văn
Chẩn, còn được gọi chết tên là “Vua Lốp”, người bị Hà Nội khởi tố vì
“thu gom phế liệu” một ngành “độc quyền nhà nước”. Bài phóng sự do Trần
Quang Huy viết có tên Lời Khai Của Một Bị Can nhanh chóng được nhiều tờ
báo đăng lại hoặc lên tiếng ủng hộ, kể cả báo Nhân Dân. Sau Lời Khai Của
Một Bị Can, Văn Nghệ có thêm những bài báo thu hút dư luận như Người
Đàn Bà Quỳ và đặc biệt là Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì? của Phùng Gia Lộc.
Phùng Gia Lộc là một người viết văn ở Thanh Hoá. Giữa thập niên 1980,
ông có một số bài viết đụng chạm đến những tiêu cực ở địa phương. Bí thư
Tỉnh uỷ Thanh Hoá bấy giờ là ông Hà Trọng Hoà, một người mà bài vè
“Thanh Hoá dô tá, dô tà” gọi là “vua không ngai”. Bị đe doạ, Phùng Gia
Lộc phải trốn ra Hà Nội. Theo Nguyên Ngọc: “Anh em văn nghệ ở Thanh Hoá
tổ chức đưa Phùng Gia Lộc lên tàu, cử hai người đứng hai đầu toa để canh
chừng. Ra Hà Nội, thoạt đầu Lộc ở nhà Bế Kiến Quốc, sau thấy nhà Quốc
không an toàn, anh em đưa Lộc về sống tạm ở toà soạn báo Văn Nghệ”.
Tại Toà soạn báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc kể lại câu chuyện chính quyền
Thanh Hoá theo lệnh của bí thư, tịch thu xe đạp, phích nước và lợn gà
của những gia đình thiếu thóc nghĩa vụ. Năm ấy Thanh Hoá mất mùa, đói
kém, bí thư chỉ thị: “Lợi ích của người lao động phải hy sinh cho lợi
ích nhà nước”.
Câu chuyện xảy ra trong một gia đình có một cụ già bệnh nặng, sắp tới
lúc gần đất xa trời. Gia đình đã giấu vào trong cỗ quan tài đóng sẵn của
bà cụ một ít thóc để lo “hậu sự”. Gần một giờ sáng, “dân quân ập vào…
tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu eng éc như bị chọc tiết,… dân quân,
công an lật cỗ quan tài dưới gầm bàn thờ, lúa chảy rào rào. Đấy là lúa
tạ, hai cô con gái mua cho để sau hôm bà già chết, đãi khách”.
Phùng Gia Lộc kể, cả toà soạn Văn Nghệ ngồi nghe, rồi khóc. Nguyên Ngọc
nói: “Tôi bảo Lộc viết ngay đi”. Lộc cầm bút và bài ký Cái Đêm Hôm Ấy
Đêm Gì của anh, đăng trên Văn Nghệ số ra ngày 23-1-1988, đã gây chấn
động. Các báo cho đăng lại. Cuộc chiến của báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc
với Bí thư Thanh Hoá Hà Trọng Hoà từ đó bắt đầu được gần như tất cả các
báo theo dõi và đăng bài ủng hộ.
Năm 1987 có thể coi là năm của Nguyễn Văn Linh. Câu nói tưởng như vô
trách nhiệm của ông với văn nghệ sỹ, “hãy tự cứu mình trước khi trời
cứu”, đã tạo ra những ảnh hưởng không ngờ. Bản chất của lao động sáng
tạo là độc lập. Điều mà giới văn nghệ sỹ cần là tự do. Được lời của Tổng
bí thư, ai cũng sốt sắng tự mình cởi trói.
Nhiều tác phẩm gây xôn xao dư luận, xuất bản trong thập niên 1990, đã
thai nghén trong giai đoạn Nguyễn Văn Linh. Sau Nguyễn Huy Thiệp, xuất
hiện thêm Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,… Những nhà văn đã có tác phẩm trước
đó như Dương Thu Hương, Nguyễn Minh Châu cũng bắt đầu viết bằng những
hơi thở mới.
Sau Nghị quyết 05 Bộ Chính trị, công an và các cơ quan liên quan triển
khai “làm chính sách cho các đối tượng Nhân Văn Giai Phẩm”. Đại tá Thái
Kế Toại, người được A25 giao viết báo cáo về “tình hình các đối tượng
Nhân Văn” cho biết, công an đã “đề xuất phương hướng giải quyết chế độ
chính sách” theo hướng: Phục hồi hội tịch Hội Nhà văn cho Trần Duy, Trần
Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ
lương hưu cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
Cũng trong năm 1987, lần đầu tiên kể từ sau Nhân Văn, Nhà Xuất bản Văn
hoá in cho Hoàng Cầm tập thơ Mưa Thuận Thành; Báo Quảng Nam-Đà Nẵng in
cho Phùng Quán trường ca Cây Cà. Năm 1988, Nhà Xuất bản Tác phẩm mới in
tập thơ Lá của Văn Cao.
Năm 1976, Văn Cao sáng tác ca khúc đầu tiên kể từ sau “Nhân Văn”, bài
hát có tên là Mùa Xuân Đầu Tiên đã được in trên báo Sài Gòn Giải Phóng
và được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Tuy nhiên ngay sau đó, bằng
một lệnh không thành văn, Mùa Xuân Đầu Tiên biến mất. Cuối thập niên
1980, những “đêm nhạc Văn Cao” bắt đầu được tổ chức trang trọng ở Sài
Gòn và Hà Nội. Cũng trong năm 1988, Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà
Nội và được cấp nhà.
Cho dù, trước khi Nguyễn Văn Linh rời chính trường, tháng 4-1991, Ban
Chấp hành Trung ương mà ông đứng đầu vẫn ra thông báo về vụ án “Nhân Văn
Giai Phẩm” và vụ “Xét lại chống Đảng 1967” với quan điểm “không thừa
nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây”. Nhưng Trần Dần, Lê
Đạt, Phùng Cung,… tiếp tục được xuất bản tác phẩm. Năm 1992, Kỷ yếu Nhà
văn Việt Nam được in và tên của Phan Khôi lần đầu tiên được nhắc lại.
Khát vọng tự do của người dân, đặc biệt là của tầng lớp trí thức và văn
nghệ sỹ, thường không có giới hạn. Nhất là lúc đã đứng thẳng dậy. Đây
cũng là thời kỳ mà chương trình “cải tổ” được Gorbachev thúc đẩy mạnh mẽ
ở Liên Xô. Đây cũng là thời kỳ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ.
Việt Nam có thể đã khác và lịch sử có thể đã ghi nhiều dấu ấn của
Nguyễn Văn Linh hơn nếu như, cuối thập niên 1980, mục tiêu ưu tiên của
ông đã không được chuyển từ dân chủ hoá hệ thống chính trị và đời sống
xã hội sang cứu vãn sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
***
Chú thích chương 12
(5) Khi ấy là Phó tổng biên tập báo Nhân Dân.
(6) Ông Nguyễn Văn Linh viết: “Sau vài bài đầu của Những việc cần làm
ngay, có đồng chí khuyên tôi nên thôi, vì lo: Những bài viết của tôi sẽ
không được hưởng ứng, lúc đó mới thôi viết, thế là đánh trống bỏ dùi, đã
vô ích lại mất tín nhiệm; Sợ tôi làm sao biết hết, biết thật đúng mọi
việc, sẽ có sự đôi co phản tác dụng…; Cũng có người có trách nhiệm chỉ
trích, biết bao nhiêu việc cần làm, sao phải hăng hái chống tiêu cực như
vậy? Sao không chuyên tâm nói tới những chuyện tích cực? Vài trăm tấn
tỏi, mấy vị mang hộ chiếu ngoại giao đi buôn… có gì là ghê gớm, phê và
tự phê công khai chỉ làm rối lòng dân, làm cản trở công việc của cán bộ
lãnh đạo”. Rồi ông tuyên bố: “Đành phải trái lời khuyên, tôi vẫn viết
tiếp vì thấy cần quá” (báo Nhân Dân số ra ngày 10-7-1987).
(7) Chỉ thị 05/CT-TU, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
(8) “Tiêu biểu là quận Tân Bình, đã thực hiện được 1129 việc cần làm
ngay trong đó có 520 việc ở khu phố, số việc chống tiêu cực chỉ chiếm 5%
còn lại là những việc tích cực như lập an ninh trật tự, phân phối lưu
thông, sửa đường, cầu cống, lớp học. Ở Phú Nhuận, thực hiện được 181/256
sự việc. Ở Hóc Môn, thành lập được 7 đoàn cán bộ xuống tháo gỡ khó khăn
ở 31 hợp tác xã và 14 xã” (Chỉ thị 05/CT- TU, lưu trữ tại Thư viện Ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh).
(9) Phó chính uỷ Quân giải phóng miền Nam trong thời gian ông Nguyễn Văn Linh làm Phó bí thư Trung ương Cục.
(10) Những phát biểu trong cuộc đối thoại được trích đăng trong đoạn này lấy từ bài tường thuật trên báo Văn Nghệ 42, ngày 17-10-1987.
(11) Năm 1957, khi ra Bắc, thay vì chọn Nguyễn Văn Linh, người đã là
thường vụ Xứ uỷ từ năm 1949, Lê Duẩn giao chức bí thư Xứ uỷ Nam Bộ cho
ông Phạm Hữu Lầu, một người đang có bệnh và chỉ sống được thêm vài năm
sau đó. Tại Đại hội III, ông Linh được bầu vào Trung ương và, năm 1960,
khi Xứ uỷ Nam Bộ được thay thế bằng Trung ương Cục, ông là bí thư.
Nhưng, năm 1965, khi “cách mạng miền Nam” chuyển sang giai đoạn “đánh
Mỹ”, ông Lê Duẩn đã đưa Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào thay thế. Năm
1967 khi ông Thanh mất, một uỷ viên Bộ Chính trị khác là Phạm Hùng đã
được “điền” vào để nắm Trung ương Cục. Ông Linh phải chấp nhận làm “phó”
cho tới sau 1975. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh được
giao phụ trách phần “nổi dậy” và khi về Sài Gòn, ông “lửng lơ” ở Trung
ương Cục cho tới tháng 2-1976 mới được bố trí làm bí thư Thành uỷ Sài
Gòn-Gia Định. Tháng 12-1976, Nguyễn Văn Linh trở thành uỷ viên Bộ Chính
trị nhưng chỉ được làm trưởng Ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương;
rồi năm 1978, khi xuất hiện vấn đề “người Hoa”, ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười
vào thay thế. Nguyễn Văn Linh được điều ra Hà Nội làm trưởng Ban Dân
vận, rồi chủ tịch Tổng Công đoàn. Đến năm 1980 thì ông chỉ còn là “uỷ
viên Bộ Chính trị theo dõi thực hiện nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở
phía Nam”.
(12) Trong cuốn sách này, Nguyễn Văn Linh phê phán sự “choáng ngợp
trước thắng lợi” và chỉ trích những cán bộ tiếp quản miền Nam “thừa
nhiệt tình và thiếu kiến thức”. Ông Linh viết: “Chúng ta đã không đủ
bình tĩnh để nhìn thành phố một khi được giải phóng, hiển nhiên trở
thành tài sản của chính chế độ ta dù cho kẻ thù xây dựng thành phố nhằm
mục đích gì; chưa nhận thức được thực trạng kinh tế- xã hội của Thành
phố qua hai mươi mốt năm sống dưới chế độ thực dân mới, đã là một khu
vực có trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa nhất định… thay vì giữ cho
quy trình sản xuất tiếp tục vận hành và phát triển thì chúng ta vội vàng
lên án, vội vàng sửa đổi cơ chế của nó, phủ nhận từ khoa học quản lý
đến quy trình kỹ thuật” (Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Nhà Xuất bản Sự
thật 1985, trang 95).
(13) Trong khi, ngày 17-10-1986, Trường Chinh đã “tuyên ngôn đổi mới”
tại Đại hội đại biểu đảng bộ Hà Nội. Ngày 23-10-1986, phát biểu tại Đại
hội đại biểu đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn kêu
gọi: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh phục vụ của thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa, tăng cường quản lý thị trường, giá cả”. Mãi tới cuối bài phát
biểu, Nguyễn Văn Linh mới lưu ý các đại biểu về bài phát biểu nói trên
của Tổng bí thư Trường Chinh.
(14) Năm 1978, cách “đánh tư sản” của ông Đỗ Mười đã làm cho hầu hết
các nhà lãnh đạo có mặt ở miền Nam phản ứng. Nhưng, theo ông Đặng Quốc
Bảo, ông Nguyễn Văn Linh còn có một số bức điện gửi cho Ban Bí thư, phân
tích vai trò quan trọng của người Hoa như một nhịp cầu nối nền kinh tế
miền Nam với các nơi. Cách nhìn nhận này, theo ông Bảo: “Đã làm cho
những người bảo thủ trong Trung ương quy kết ông Linh chống lại Nghị
quyết Đại hội IV. Người trực tiếp truyền đạt ý kiến này là ông Trường
Chinh”. Năm 1983, khi Hội nghị Đà Lạt diễn ra, theo bà Nguyễn Thị Đồng,
bí thư nhà máy Dệt Thành Công, mấy lần bà được ông Linh rỉ tai: “Ông
Trường Chinh đã thừa nhận ông ấy sai, tôi đúng”. Thư ký của Tổng bí thư
Trường Chinh, ông Trần Nhâm kể: Ngay sau bài phát biểu tại Hội nghị
Trung ương 6, tháng 7-1984, Nguyễn Văn Linh là một trong những người đầu
tiên đến nhà ca ngợi ông Trường Chinh. Nhưng khi Trường Chinh đề nghị:
“Anh nắm được thực tế, anh nên phát biểu, vì tình hình còn căng lắm”.
Ông Linh nói: “Anh phát biểu thì chúng tôi ủng hộ chứ chúng tôi không
phát biểu được”.
(15) Đại Việt Tân Báo của Đào Nguyên Phổ, năm 1905; Đăng Cổ Tùng Báo,
năm 1908, Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh, năm 1913; Nam Phong
Tạp chí của Phạm Quỳnh, Phan Khôi, năm 1917. Năm 1927, ở miền Trung,
Huỳnh Thúc Kháng ra tờ Tiếng Dân. Năm 1930, Quốc Dân đảng ra hai tờ:
Khúc Tiêu Sầu và Con Đường Chính.
(16) Nguyễn Đình Thi, Nhân Đường, Tạp chí Văn Nghệ số 1.
(17) Tạ Tỵ, Mai Thảo, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Mạnh
Côn, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Duy, Võ Phiến, Thanh
Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Lê Văn Vũ Bắc Tiến…
(18) Phát ngôn nổi tiếng của Mao: “Trí thức không bằng cục phân”.
(19) Ngày 11-3-1955.
(20) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân đội, số 4, tháng 4-1958.
(21) Trong bài thơ Nhất Định Thắng, Trần Dần viết:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
Họ vẫn bảo chờ…
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt.
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
(22) “Luồng gió ấm” này của Văn nghệ Liên Xô đã sinh ra một thế hệ văn
nghệ sĩ tài năng với các tác phẩm xuất sắc như Bác sĩ Jivago, Đàn Sếu
Bay Qua, Hai Người Lính, Người thứ 41, Không Thể Sống Bằng Bánh Mì, Ngày
Của Binh Nhất Ivan…
(23) Ra ngày 15-9-1956.
(24) Nhân Văn số 2
(25) Nhân Văn số 5
(26) Điều 8, Sắc lệnh 14-12-1956, quy định: “Muốn xuất bản một tờ báo
phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khai báo. Sau khi
được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép tờ báo mới
được bắt đầu hoạt động. Báo chí nào đã được cấp phép xuất bản mà sau đó
có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành
hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo đều phải xin
phép và khai báo lại”.
(27) Ngày 30-10-1956, sau khi nghe Trường Chinh thay mặt Đảng đọc “kiểm
điểm về sai lầm của Cải cách Ruộng đất” trước Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Tường đã nói: “Tôi
phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động do ông Trường Chinh
đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi
một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã
phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính
cẩn nghiêng mình trước những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn
tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta,
những đồng bào đã hi sinh, có thể nói, được chết với trong lòng chan
chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh
vuốt của địch. Họ chết bởi địch, cho ta. Đó là cái chết tích cực, cái
chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại,
những người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này,
lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh”.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường nói tiếp: “Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông
dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng,… khi đưa ra khẩu hiệu ‘thà
chết mười người oan còn hơn để sót một địch’ thì khẩu hiệu này không
những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa… Khẩu
hiệu này đã tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao
nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là
gì? Khẩu hiệu của pháp lý phải là: thà mười địch sót còn hơn một người
bị kết án oan”. Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường chỉ ra điểm mấu chốt của sai
lầm: “Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý”. Ông tiếp:
“Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng
tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái
nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ chân lý” (Tập
san Tự do Diễn đàn, Minh Đức xuất bản số cuối tháng 12-1956).
(28) Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 222.
(29) Đinh Linh phải ngồi tù cho tới năm 1975.
(30) Theo đại tá Thái Kế Toại (Lê Hoài Nguyên - Vụ Nhân Văn Giai Phẩm…).
(31) Theo Đại tá Thái Kế Toại, người phụ trách hồ sơ vụ Nhân Văn Giai
Phẩm ở A 25: “Nghị quyết này là một điển hình cho tình trạng cực đoan về
lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
(32) Một quần thể kiến trúc ở Hà Nội xây dựng bởi Tổng đốc Hoàng Cao Khải, thời Thành Thái.
(33) Trong bài “Tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm” đọc
ngày 4-6-1958, Tố Hữu nói: Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng
Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để
đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ
chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu
tâm hồn” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự
do sa đoạ. Đương nhiên cái “điệu tâm hồn” ấy của Lê Đạt xướng lên không
thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó
chỉ hoà được với “tiếng sáo tiền kiếp” lóc gân của tên mật thám Trần
Duy. Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác - những đứa con hư hỏng của Hà
nội cũ - nay lại trở về với “cảnh cũ người xưa” bỗng cảm thấy đời sống
trong quânđội “nghẹt thở”, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống truỵ
lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là
“những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra”. Được tiêm thêm ít nhiều
chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên “tiếng trống tương lai”
chửi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”, “người ụ”. Cùng Tử
Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh
“buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu” của họ (Bọn Nhân văn - Giai phẩm
trước Toà án Dư luận, Nhà Xuất bản Sự thật tháng 6-1959, trang 23).
(34) Nhận xét của Đại tá Thái Kế Toại.
(35) Hoàng Cầm bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Hội, khai trừ ra khỏi Hội
một năm; “Cho” Hoàng Tích Linh rút khỏi Ban Chấp hành; Khai trừ vĩnh
viễn Phan Khôi, Trương Tửu, Thuỵ An ra khỏi Hội Nhà văn; Khai trừ có
thời hạn ba năm đối với Trần Dần, Lê Đạt; Khai trừ một năm đối với Phùng
Quán. Ở Hội Mỹ thuật: “cho” Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi Ban Chấp
hành; khai trừ Trần Duy. Ở Hội Nhạc sĩ: “cho” Văn Cao, tác giả Quốc ca
và Nguyễn Văn Tý, rút khỏi Ban Chấp hành; khai trừ ba năm Tử Phác, Đặng
Đình Hưng ra khỏi Hội. Một số nhân sĩ có thái độ ủng hộ Nhân Văn như
Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng Văn Ngữ,
Nguyễn Tấn Gi Trọng… đều bị liên luỵ. Tại các địa phương, nhiều giáo
viên, cán bộ, học sinh có mua báo Nhân Văn đều bị xử lý với nhiều hình
thức.
(36) Theo Đại tá Thái Kế Toại.
(37) Theo Đại tá Thái Kế Toại.
(38) Trần Dần tự nhận: “Tất cả cái gọi là sự nghiệp chống công thức,
tìm cái mới của tôi chỉ là sự nghiệp chống Đảng ngày càng trầm trọng và
khôn khéo hơn, như thế mà thôi. Tôi tưởng tôi là một thứ ‘martyr’ (tử vì
đạo) vì dân vì Đảng, nhưng sự thực chứng tỏ dối dân, dối Đảng, tôi là
một kẻ tội đồ, mà dân ta, Đảng ta còn chưa trừng trị. Tôi tưởng con
đường tôi đã đi là con đường hi sinh cao cả ‘chemin de calvaire’ sự thực
chứng tỏ đó chỉ là một con đường tội lỗi nhơ bẩn mà hình phạt vẫn còn
chưa xứng tội” (Văn Học số 1, ngày 25-5-1958, và Văn Nghệ số
12, tháng 5-1958). Lê Đạt đã tự nhận mình “xuất thân từ giai cấp tư sản
bóc lột”, “vào Đảng với động cơ địa vị”, và ngay cả “lấy vợ cũng cơ hội,
kiếm chác ‘lập trường’ trên đời một người cốt cán rồi đến lúc về Hà Nội
lại hiện nguyên hình giai cấp bóc lột khinh công nông ruồng rẫy vợ, cho
vợ không xứng đáng với mình”. Ông cho rằng “đồng chí Tố Hữu đối với tôi
rất tốt và luôn luôn nâng đỡ tôi”.
Lê Đạt “thừa nhận” việc phê bình thơ Tố Hữu là vì “háo hức kiếm danh”
mà “quên hết cả những điều tốt của đồng chí Tố Hữu, hằn học đả kích hòng
dìm đồng chí xuống để nâng mình lên” (Văn Học số 1, ngày 25-5-1958 và Văn Nghệ
số 12, tháng 5-1958). Còn đây là một bài báo đứng tên Hoàng Cầm: “Tôi
đã là một tên đào ngũ, bỏ hàng ngũ cách mạng, đi làm một tay sai lợi hại
cho tư sản phản động. Từ một người trông có vẻ hiền lành ‘nho nhã’ kéo
lê một cái xác thịt hưởng lạc, hiếu danh, hiếu sắc, thèm tiền trong các
tiệm trà, tiệm cà phê, tửu quán, đầu óc vẫn đục, đen tối bởi những ý
nghĩ phản động, tôi đã rất nhanh chóng biến thành một con rắn độc cắn
lại cách mạng” (Văn Nghệ 12, tháng 5-1958). Chính tác giả Quốc
ca, Văn Cao, cũng phải viết: “Tôi đã bị mất dần phẩm chất cách mạng, mù
quáng đến chỗ không thấy được sự phản ứng của chủ nghĩa tư bản với sự
tấn công của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai từ bên ngoài vào.
Trong khi các đồng chí đang phải tích cực đấu tranh với những âm mưu của
nhóm ‘Nhân văn-Giai phẩm’ thì tôi đã tự biến mình thành tay trong của
bọn cầm đầu ‘Nhân văn- Giai phẩm’ hoạt động trong nội bộ Đảng. Tôi thật
có tội với nhân dân, với Đảng. Tôi vô cùng hối hận” (Văn Học số 3, ngày
15-6-1958).
(39) Bọn Nhân văn - Giai Phẩm trước Toà án Dư luận, Nhà Xuất bản Sự thật 6-1959, trang 31.
(40) Theo Đại tá Thái Kế Toại.
(41) Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 215.
(42) Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 453.
(43) Trong những năm học Cao đẳng Sư phạm, Nguyễn Hữu Đang viết và biên
tập cho các báo của Mặt trận Dân chủ như Thời báo, Ngày mới và báo Tin
tức của Đảng Cộng sản. Từ năm 1938 ông là một trong những cán bộ chủ
chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Tháng 8-1945, tại Đại hội Quốc dân ở
Tân Trào, ông được bầu vào Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Trung ương, một
hình thức chính phủ đầu tiên của Việt Minh. Khi Việt Minh cướp được
chính quyền, đích thân Hồ Chí Minh giao ông làm trưởng Ban Tổ chức Ngày
tuyên bố Độc lập 2-9.
(44) Theo Đại tá Thái Kế Toại.
(45) Theo Nhật ký ngày 14-12-1956 của Nguyễn Huy Tưởng: “Bây giờ họ họp
nhau, chỉ để bàn cách trang trải số nợ với các đại lý. Vì công đoàn vận
động công nhân không in, báo không được ra, phải trả (lại) tiền đại lý.
Có người đã đến cửa nhà Nguyễn Hữu Đang đòi. Bàn xem lấy tiền đâu. Đóng
góp thì ít có tiền. Vay tư sản thì họ giữ kẻ. Thế mà Trung ương bảo mỗi
đứa, mỗi bài được trả 8, 9 vạn. Đi ăn tiệc với Pháp, trường A. Sarraut
trợ cấp…”. (Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III, Nhà Xuất bản Thanh Niên
2006, trang 178). Cũng trong ngày 14-12-1956, Nguyễn Huy Tưởng viết:
“Anh em lo nhất cho Nguyễn Hữu Đang mấy hôm nay gầy guộc. Lo trang trải
công nợ, không thể đi đâu được. Không trả thì sẽ bị quy kết là bội tín”.
Theo ông Tưởng thì để trả nợ nhà in, Nguyễn Hữu Đang đã phải bán quần
áo đi để lấy tiền. Ông đã phải viết giấy xác nhận: Tôi Nguyễn Hữu Đang
nhận bán cho ông… bộ quần áo này” (Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập III,
Nhà Xuất bản Thanh Niên 2006, trang 178).
(46) Trong bài “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên báo Nhân Văn số
4, Nguyễn Hữu Đang viết: “Hoà bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh
thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào thì cũng không thể coi
miền bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì mãi một nền pháp trị
(thiếu) hẳn hoi… Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến
thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý,
công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ,
hộ khẩu rình bên cửa sổ khiếnngười ta mất ăn mất ngủ, cán bộ thuế tự
tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung
tung hoặc ép buộc người ở nhà rộng phải nhường một phần cho cán bộ hay
cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân
viên và một ngành rất quan trọng đòi thông qua những bài báo nói đến
mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm
duyệt mà chính nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã
làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn”.
(47) Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật.
(48) Trong cuốn Ba Phút Sự Thật, Phùng Quán viết: “Tôi dắt xe
đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm ọ
rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng
lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông
thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây
cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó
chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng…”. Ông Đang sống
“trong một cái chái bếp, căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng năm mét
vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc
ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo
may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm
lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên
trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe
rất vui tai”. Đấy là chùm lục lạc “học tập sáng kiến của đồng bào các
dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu”, ông Đang “chế chùm lục lạc đeo
vào cạp quần”, để “đi lại trong đường làng những đêm tối trời” không
còn “bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào”. Công
dụng thứ hai, theo Phùng Quán: “Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe
tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc”.
Mãi tới năm 1993, sau vận động của nhiều nhà lãnh đạo đã từng hoạt động
cùng ông Nguyễn Hữu Đang. Nhà nước đã cấp cho ông một căn hộ ở gần Cầu
Giấy, Hà Nội và bắt đầu cho ông được hưởng lương hưu.
(49) Sau khi Việt Minh nắm quyền, Nguyễn Mạnh Tường được mời dạy văn
học Tây phương tại Trường Đại học Văn khoa do ông Đặng Thai Mai làm hiệu
trưởng. Năm 1946, Nguyễn Mạnh Tường được Hồ Chí Minh mời tham gia đoàn
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Hội nghị Đà Lạt. Ông từng
tham dự Hội nghị Bảo vệ Hoà bình Châu Á-Thái Bình Dương, năm 1952, Đại
hội Hoà bình Thế giới, năm 1953. Năm 1956, tại Hội nghị Luật gia Dân chủ
Thế giới họp ở Bỉ, ông Nguyễn Mạnh Tường đã bảo vệ lập trường cho miền
Bắc Việt Nam.
(50) Ngày 4-6-1958, Tố Hữu nói: “Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta
đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà bình
vừa lập lại. Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và
bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở
trường đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn
nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần
Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong Phòng Văn nghệ Quân đội”
(Bọn Nhân văn - Giai phẩm trước Toà án Dư luận, Nhà Xuất bản Sự thật
tháng 6-1959, trang 23).
(51) Phạm Huy Thông viết: “Trần Đức Thảo, ở trong đại học và ở ngoài
đại học, lúc nào cũng lớn tiếng đòi trả chuyên môn cho chuyên môn, đòi
trục xuất chính trị ra khỏi địa hạt của chuyên môn… Vậy mà nội bộ nhóm
Nhân Văn, Thảo chống chủ trương “văn nghệ phải phục vụ chính trị”. Điều
ấy có ý nghĩa là Thảo không phải chống quan điểm chính trị lãnh đạo
chuyên môn mà là chống chính trị cách mạng lãnh đạo chuyên môn… Thảo
thường tự kiêu về tài học, về hoạt động chính trị của Thảo khi còn ở
nước ngoài. Thật ra thành tích học thuật cũng như thành tích chính trị
của Thảo ở Pháp trước đây, nhìn lại toàn là những thành tích bất hảo.
Mất gốc rễ dân tộc… Năm 1944-1945 Thảo cũng có tham gia phong trào yêu
nước của Việt kiều ở Pháp lúc đó, Thảo có lần khoe sự tham gia của Thảo
khác hẳn sự tham gia của mọi người. Khác thật, khác ở chỗ trong khi mọi
người đóng góp phần mình một cách giản dị, tự nhiên, thì Thảo tìm cách
bắt loa tuyên truyền, đề cao uy tín cá nhân… Trước khi về nước để gây
dựng thêm uy thế làm “vốn chính trị” về sau, Thảo đã làm một việc chẳng
thơm tho gì. Đó là vụ kiện Giăng Pôn Xác. Xác có đề nghị với Thảo và một
môn đệ khác nữa, ba thầy trò cùng viết chung một cuốn sách. Sách soạn
được nửa chừng, Xác thấy trình độ kém, e sách ế, thôi không xuất bản
nữa. Thảo cay cú vì vừa mất ăn, vừa bị chê, bèn tung dư luận rằng mình
tranh luận với Xác. Xác thua nên không dám xuất bản sách và đòi kiện”
(Báo Nhân Dân ngày 4-5-1958).
(52) Trần Đức Thảo viết: “Kiểm điểm lại việc làm từ mùa thu năm 1956,
tôi vô cùng đau xót. Những sai lầm, tội lỗi của tôi thuộc về vấn đề lập
trường, quan điểm. Hoạt động trong nhóm Nhân văn tôi đã tụt xuống cái
lập trường xét lại của tôi ngày còn ở bên Pháp và tham gia nhóm ‘Thời
hiện đại’ (Les Temps moderns) của Giăng Pôn Xác (J.P Sartre) Tôi đã mất
cái phần tiến bộ mà tôi đã tiếp thu trước kia nhờcông trình kháng chiến
của nhân dân và lãnh đạo của Đảng. Thực tế là tôi đã biện hộ cho giai
cấp tư sản và gây tác hại rất lớn. Trước kia tôi không ngờ rằng tôi có
thể có ảnh hưởng đến thế. Bây giờ tôi mới thấy rõ. Tôi rất đau xót và
xin nhận lỗi trước Đảng và trước nhân dân” (Nhân Dân số ra ngày 23 và
24-5-1958).
(53) Chân dung của Trần Đức Thảo được Phùng Quán ghi lại qua “lăng
kính” của một “bà cụ móm, chủ quán nước dưới một gốc cây xà cừ” trong
khu tập thể Kim Liên: “Đằng kia-nhà B6-cũng có một ông tên Thảo, nhưng
lôi thôi nhếch nhác, quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông
sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép
cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp ‘Pơ-giô con vịt’ mà
mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc? Mặt cứ vác lên
trời, đạp xe thinh thoảng lại tủm tỉm cười một mình như anh dở người…
Một buổi trưa nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh,
tôi hỏi: Ông đi đâu về mà nắng nom vất vả thế?. Ông nói: Lên chợ Hàng
Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi ông để đâu cả rồi? Ông quay lại nhìn
cái ‘poócbaga’, mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ còn có sợi dây buộc! Củi ná rơi
đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy
tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Bà cụ chép miệng
thương cảm: Một vài năm nay không thấy ngang qua đây, ông đạp xe dễ chết
rồi cũng nên”.
(54) Nhất Định Thắng, Trần Dần.
(55) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36-1975, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 168.
(56) “Đề nghị các anh cho chuẩn bị khẩn trương để kịp ra báo Cờ giải
phóng ngay từ đầu khi mới giải phóng Sài Gòn. Cụ thể: a, Cho tập hợp
ngay một số cán bộ viết báo như Thép Mới, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Văn
Bổng, cán bộ quản lý, cán bộ phát hành. Đề nghị cử anh Hai Trinh làm chủ
bút hay chủ nhiệm. Anh Nguyễn Thành Lê làm việc nội bộ vì ra công khai
không tiện. Sẽ cử anh Lý Văn Sáu vào làm thông tin và phát ngôn. b, Cho
chuẩn bị ngay nhà in và giấy. Ký tên: Lành” (Văn kiện Đảng Toàn tập, tập
36-1975, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 168).
(57) Người phụ trách tờ Tuổi Trẻ trong những số báo ra đầu
tiên, tháng 9-1975, ông Võ Ngọc An kể: “Những bài báo phục vụ chiến dịch
đánh tư sản, chủ yếu do cơ quan tuyên huấn soạn sẵn, phát trước cho các
báo và chúng tôi cứ thế in nguyên văn”. Ông Tô Hoà, người phụ trách toà
soạn Sài Gòn Giải Phóng từ ngày 17-5-1975, xác nhận: “Chức Tổng Biên tập Sài Gòn Giải Phóng
lúc đó do một Phó Ban Tuyên huấn Miền, ông Bảy Lý, kiêm. Ông Bảy Lý
hàng ngày được dự những cuộc giao ban của Trung ương Cục, từ tinh thần
những cuộc giao ban đó, ông viết thành những bài xã luận đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng”.
(58) Tô Hoà, trả lời phỏng vấn tác giả.
(59) Của Bộ Thông tin Văn hoá Chính phủ Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
(60) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, bản thảo của tác giả, tr 292-293.
(61) Lời Quốc ca Việt Nam Cộng hoà.
(62) Báo cáo của ông Trần Trọng Tân, Tài liệu lưu trữ cá nhân của ông Võ Văn Kiệt.
(63) Theo một bức thư tay của Phó Ban Tuyên huấn Thành uỷ Nguyễn Sơn
gửi cho ông Trần Trọng Tân: “Kính gửi anh Hai Tân. Đây là báo cáo do Lý
Quý Chung viết để đưa cho Trương Lộc cung cấp cho Sở Công An (vì Lộc là
cộng tác viên của Công an chứ Chung chưa trực tiếp). Báo cáo có một số
nhận định chủ quan của Chung chưa thật chính xác như việc Đức, Nhuận,
Ba… phát biểu hôm anh đến họp với họ tại toà báo). Nhưng cũng có nhiều
chi tiết về quá khứ của Đức đáng chú ý. Tôi mượn riêng của Triệu Bình
bản viết tay của Chung về đánh máy lại 3 bản, chỉ mới gởi anh một bản,
còn 2 bản tôi giữ chưa cho một người nào khác xem cả. Sơn” (Tài liệu của
Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt). Tài liệu
của Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt
(64) Tài liệu của Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt.
(65) Tài liệu của Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt.
(66) Ngày 11-1-1979, bản thảo bài báo được chuyển tới Phòng An ninh Bảo
vệ cơ quan Văn hoá PA 25. PA 25 lập tức “báo cáo khẩn” lên Thành uỷ:
“Kính gửi: anh Hai Tân thường vụ thành uỷ/ Về việc mục ‘Tư Trời Biển’
sắp đăng trên báo Tin Sáng ra trong dịp xuân năm 1979 có nội dung lập lờ, ngụ ý xấu/ Chúng tôi được biết mục ‘Tư Trời Biển’ sắp đăng trên báo Tin Sáng
ra dịp xuân năm 1979 do Ngô Công Đức viết (thỉnh thoảng Ngô Công Đức
mới viết một bài về mục này, còn thường xuyên do Nguyễn Ngọc Thạch
viết), theo lối lập lờ 2 mặt, có dụng ý xấu: Cho báo chí của chế độ ta
độc giả đọc không vào; Nếu việc quản lí kinh tế của ta do cán bộ tham ô;
Giá báo không tăng, nhà báo bị thiệt thòi (gầy mòn); Nêu lên nhiều vấn
đề tiêu cực trên nhiều lĩnh vực chung thiếu phần nhận xét đánh gía làm
cho độc giả ai muốn hiểu thế nào tuỳ ý…, thậm chí báo còn có ý nói: Xã
hội ngày nay đã mất nụ cười tươi, đầy khó khăn thiếu thốn. Báo Xuân đăng
một bài như vậy làm người đọc mất cả niềm tin, hy vọng… (báo đã in, sắp
phát hành). Vấn đề này sở công an (phòng bảo vệ cơ quan văn hoá) đã
trao đổi với bộ phận báo chí của Ban Tuyên Huấn. Vậy xin báo cáo để anh
biết và kịp thời chỉ đạo”.
(67) Thư ký toà soạn tờ Đối Diện, ông Nguyễn Quốc Thái kể: “Tín hiệu
đầu tiên mà chúng tôi nhận được là vào tháng 10-1978, nhà thơ Vũ Cận từ
Hà Nội vào gửi một chùm thơ để đăng. Đứng Dậy đang sắp chữ thì
ông Vũ Cận chạy tới xin rút thơ ra vì ông vừa nghe Tố Hữu nói trong một
hội nghị: “Giờ này mà còn muốn đứng dậy thì cho nó nằm xuống luôn”. Hai
tháng sau, Giáo sư Lý Chánh Trung, một đồng nghiệp công giáo, đang là
đại biểu Quốc hội và Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đến toà
soạn Đứng Dậy nói là tờ báo nên “hoàn thành nhiệm vụ”. Ông
Nguyễn Quốc Thái kể, khi được hỏi: “Anh nói với tư cách gì?”. Tuy chỉ
nhận là “với tư cách một người bạn”, nhưng Giáo sư Lý Chánh Trung cũng
phải thừa nhận là ông được Chính quyền nhờ thông báo. Đứng Dậy lập tức “nằm xuống” sau số báo ra tháng 12-1978.
(68) Báo cáo này nhật xét: “Những sai sót và biểu hiện xấu trên báo
giảm đi rất nhiều so với những năm 1975-1977. Có thể nhận xét rằng trên
mặt báo, họ đang phát huy mặt tích cực, có lợi cho ta, nhất là trong
tình hình chính trị phức tạp của thành phố qua các sự kiện “nạn kiều”,
đánh đổ chế độ Polpot, vấn đề người di tản bằng thuyền”.
(69) Báo cáo ngày 23-4-1981, tài liệu của Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt.
(70) Báo cáo ngày 23-4-1981, tài liệu của Ban Tuyên huấn Thành uỷ, lưu trữ riêng của ông Võ Văn Kiệt.
(71) Ông Kiệt nhìn nhận: “Sau ngày giải phóng, chúng ta cũng cố gắng
tập hợp lực lượng tích cực đối lập hồi chế độ cũ, chúng ta mở rộng mặt
trận đoàn kết dân tộc để tiếp tục đấu tranh gạt bỏ dần những ảnh hưởng
của chế độ cũ để lại trong các tầng lớp nhân dân chúng ta, đặc biệt đối
với tầng lớp bên trên. Tờ Tin Sáng và những người trước đây ở trong tờ Tin Sáng
cũng có mức chọn lựa là tiếp tục muốn đóng góp cho sự nghiệp nước nhà
sau khi đất nước được giải phóng”. Ông Kiệt phân tích: “Nếu như tờ Tin Sáng
còn tiếp tục nữa, chúng ta vẫn còn có thể phát huy mặt tích cực của tờ
báo. Nhưng chúng ta đứng trước tình hình mà kẻ thù của chúng ta có những
âm mưu rất thâm độc, rất nguy hiểm và bằng mọi cách phá hoại công cuộc
xây dựng đất nước chúng ta rất toàn diện… Chúng ta đã xác định kinh tế
còn năm thành phần, nhưng văn hoá chỉ có một là văn hoá dân tộc và xã
hội chủ nghĩa. Đã đến lúc tất cả những tiếng nói đều phải là tiếng nói
yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội để chiến đấu và chiến thắng, không có
tiếng nói khác được. Nếu người ta gọi là yêu nước nhưng chưa yêu được
chủ nghĩa xã hội thì nhiệm vụ của những người cộng sản ở bất cứ đâu phải
giải thích. Nếu ai không thấy chủ nghĩa xã hội, chỉ yêu nước thôi, hoặc
biểu hiện hoài nghi có nghĩa là đã phủ nhận vai trò của Đảng, từ chối
sự lãnh của Đảng… Tôi nói hơi rộng ra một chút để thấy việc chúng ta
dùng Tin Sáng đến mức như thế này là vừa đủ và chúng ta kết thúc được rồi”. Ông Võ Văn Kiệt cho rằng: “Sự tồn tại của Tin Sáng
hơi đặc biệt và chúng ta biết dùng nó để ca ngợi chế độ, phục vụ chế độ
trong khi nó không có nửa người đảng viên, không có một đảng viên nào
cả… Trên trận địa báo chí này, ở các nước anh em cũng vậy, ở phía Bắc
cũng vậy, ở phía Nam cũng vậy, trừ Tin Sáng là hơi cá biệt do hoàn cảnh lịch sử, do có điều kiện nhất định của nó”. Khi tính đến “quần chúng độc giả của Tin Sáng”, ông Kiệt nói: “Có nhiều ý kiến tham mưu nên giữ tờ báo Tin Sáng mà thay đổi cơ cấu, thành phần Tin Sáng vì Tin Sáng
còn quần chúng của nó, còn cần thiết trong giai đoạn nữa, đổi bớt thành
phần, đưa đảng viên vào để nắm chặt chẽ tiếng nói đó. Cũng có ý kiến
hay là bớt thành phần, chuyển cơ quan báo chí hiện nay qua mặt trận, vẫn
mang danh Tin Sáng. Vài anh em ở Tin Sáng đề xuất nên theo bước này. Ban thường vụ cân nhắc: khi chúng ta cần thiết để Tin Sáng thì thành phần của nó là ‘Tin Sáng’; khi chúng ta kết thúc vai trò Tin Sáng thì cũng kết thúc với đầy đủ thành phần Tin Sáng,
rõ ràng, minh bạch”. Ông Kiệt thừa nhận: “Những sự kiện của Ba Lan hiện
nay là một bài học cho chúng ta” (Phát biểu sáng 29-6-1981, bản ghi của
Văn phòng Thành uỷ, Tài liệu của Ban Tuyên huấn, lưu trữ riêng của ông
Võ Văn Kiệt).
(72) Thư của ông Ngô Công Đức có đoạn: “Sự ra đời của Tin Sáng, sự có mặt của một tờ báo tư nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không chỉ vì chiếu cố đến quá trình của Tin Sáng
cũ, mà chính nói lên sự thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc trước
sau như một của những người cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới, cả
nước độc lập, thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội… Chúng tôi không thể
quên ơn về những lời chỉ dạy và nhắc nhở của Đảng mỗi khi chúng tôi vấp
phải khuyết điểm. Chúng tôi rất hối tiếc về những lỗi lầm của mình, do
non yếu chính trị, sơ sót nghiệp vụ, do trình độ nhận thức, chúng tôi
chân thành mong được sự thứ lỗi… Hiểu được nhu cầu chính trị hiện nay
của đất nước, thấy được lợi ích của một sự sắp xếp mới để tập trung toàn
lực dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng tôi đã đệ đơn xin được đình bản tờ
Tin Sáng và tất cả anh em Tin Sáng đang chờ đợi một
sự bố trí mới, để nhận lãnh nhiệm vụ mới. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm
vụ phục vụ một bộ phận nhân dân vùng mới giải phóng trong những năm đầu
của thời kì mới mà Đảng Bộ và chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã giao
phó. Xin cho chúng tôi gửi lời cám ơn và chào từ biệt. Chia tay, bạn đọc
cũng như anh chị em Tin Sáng đều có những ngậm ngùi của tình
cảm. Nhưng chia tay ở đây để sẽ còn gặp lại ở một vị trí mới, trong cái
chiến tuyến chung của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Chủ nghĩa
xã hội nhất định thành công. Ngô Công Đức”.
(73) “Điện Mật” của Thường vụ thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh liên tục
được gửi tới Ban Bí Thư ngày 1-7-1981 viết: “Dư luận các giới trong
thành phố sau khi Tin Sáng đình bản: Từ sáng ngày 30 đến nay
(1/7) các quận, huyện, phường, xã, các cơ sở Đảng, các đoàn thể quần
chúng đã kịp thời phổ biến chủ trương này của Thành uỷ. Dư luận hầu hết
tán thành, thấy để Tin Sáng tồn tại 6 năm là ta đã nhượng bộ
lắm rồi… Giới trí thức, một số trí thức tại chỗ có tỏ ra bâng khuâng cho
là ta không đảm bảo quyền tự do báo chí nhưng chưa thấy có những phản
ứng gì gay gắt đáng kể. Bản thân tờ báo Tin Sáng, trong quá
trình chuẩn bị đình bản cũng như buổi họp cuối cùng diễn ra đều thuận
lợi đúng theo dự kiến của ta. Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận đều phát biểu
tốt, tuy có vẻ bùi ngùi, xúc động khi phổ biến tin ngừng xuất bản cho
cán bộ công nhân viên tờ báo. Nói chung đến nay, chưa diễn ra một hiện
tượng gì xấu đáng kể, chúng tôi tiếp tục theo dõi và sẽ báo cáo tiếp.
Chín Đào” (Tài liệu của Ban Tuyên huân, lưu trữ riêng của ông Võ Văn
Kiệt).
(74) Năm 1987, khi ông Nguyễn Văn Linh hô “cởi trói”, Tuổi Trẻ đã gần như thoát ra khỏi khuôn khổ của một bản tin Thành đoàn. Tuổi Trẻ, Phụ Nữ Thành Phố và cả Sài Gòn Giải Phóng đã đóng vai trò thông tin khá tích cực trong thời kỳ “đổi mới”.
(75) Tác giả cuốn sách “Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới”.
(76) Trong lời “Đề dẫn” đọc ngày 10-3-1979, Nguyên Ngọc viết:
“Những gì đã diễn ra ở Campuchia trong ba năm dưới sự thống trị của bọn
Pol Pot-Yeng Sary, tay sai của bọn cầm quyền Bắc Kinh, đã làm bộc lộ khá
rõ thực chất của Chủ nghĩa Mao, bộc lộ cái lý tưởng xãhội kỳ quặc và
khủng khiếp của nó. Cốt lõi của cái kiểu xã hội ấy là sự thủ tiêu chính
xã hội; thủ tiêu con người với tư cách sơ đẳng nhất là con người, thủ
tiêu triệt để mọi quan hệ xã hội của con người cho đến những quan hệ sơ
đẳng nhất, phá vỡ tận gốc mọi quan hệ xã hội mà con người đã xây dựng
được trong suốt lịch sử tiến lên hàng vạn năm của mình, đẩy lùi con
người trở lại tình trạng bầy đàn tăm tối nhất… Điều rất đáng suy nghĩ
là, ngay giữa thế giới hiện đại này, giữa thế kỷ 20 này, mà chỉ trong 3
năm thôi, chủ nghĩa Mao đã có thể gây ra một tai hoạ khủng khiếp đến thế
trên một đất nước có truyền thống văn minh lâu đời và huy hoàng đến
thế, một thảm hoạ chưa từng có trong lịch sử. Rõ ràng có một mối hoạ lớn
và thực tế đang đe doạ loài người, chính ngay trên ngưỡng cửa của giai
đoạn giải phóng cao nhất của nó, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cộng sản chủ nghĩa”.
(77) Ngô Thảo, Dĩ vãng phía trước, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2011, trang 330.
(78) Sách đã dẫn, trang 325-326.
(79 Sách đã dẫn, trang 332-333.
(80) Sách đã dẫn, trang 317-338.
(81) Sách đã dẫn, trang 306.
(82) Sách đã dẫn, trang 307.
(83) Tố Hữu kể: “Tôi vừa đi sang Pháp về với một sự buồn và khinh bỉ.
Nếu không gặp những người cộng sản bình thường thì mất bao nhiêu! Hồi
xưa mình biết có những cái đẹp nào đó. Giờ là trắng trợn, thô lỗ. Thời
của anti, trên cả anti. Không còn gì là giá trị nữa hết. Nếu cuộc đời
mang lại cho họ một chút giá trị nào, thì đó là một chút thương nhau.
Tôi gặp họ. Bên những cây đa cây đề thì mấy nhà văn mình biết chỉ là cây
lau sậy. Mình cũng tỏ ra kính trọng (dù chỉ đọc lác đác vài bài). Tự
giới thiệu: tôi ở một đất nước không biết thứ bảy hay chủ nhật. Cùng
sang thăm các bạn thứ bảy có được không? Tôi ngân nga cho họ nghe mấy
đoạn thơ của mình. Họ nhận xét: âm nhạc trong thơ Việt Nam là nhất. Rồi
họ nói: Tôi rất yêu các anh. Điều đó lớn, trong một xã hội chỉ có tàn
bạo và nghi ngờ. Có hai cái lộn ngược trong xã hội đó: sự thừa thãi đến
lộn mửa những gì trong đời sống vật chất bên cạnh 1,7 triệu công nhân
thất nghiệp và 5 % làm nông nghiệp đe doạ bị phá sản. Trí thức, khoa học
không làm gì cả. Nó ở trong sự khủng hoảng, bế tắc. Trùm lên tất cả là
sự khủng hoảng, tuyệt vọng, cùng đường. Đòi hỏi một sự bùng nổ cách
mạng. Nhưng họ sợ chủ nghĩa Cộng sản. Họ sống trong tự do tư sản đến mức
không thể sống. Nhưng thoát ra thế nào thì bế tắc. Họ đang đòi hỏi một
cuộc sống có tình thương, sự tin cậy, sống với nhau có tình người hơn.
Họ bảo họ sống ở rừng rú. Đúng, Paris là rừng rú. Bực bội, khốn khổ
nhưng lại bật ra nhiều cái khác: Xã hội có vẻ đầy đủ, thiên đàng lại bật
ra tuyệt vọng nhất, bi đát nhất. Tôi vừa phẫn nộ, vừa bực bội, lòng
trào lên câu hỏi về số phận con người” (Ngô Thảo, Dĩ vãng phía trước,
Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2011, trang 313-314).
(84) Ngô Thảo, Dĩ vãng phía trước, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2011, trang 315.
(85) Năm mười ba tuổi (1930), Tố Hữu vào Trường Quốc học Huế, nơi ông
bắt đầu chịu ảnh hưởng của các đảng viên cộng sản như Lê Duẩn, Phan Đăng
Lưu, Nguyễn Chí Diểu rồi trở thành đảng viên cộng sản năm 1938. Một năm
sau ông bị bắt. Sau hơn hai năm bị tù đày, cuối 1941, ông vượt ngục.
Tháng 8-1945, Tố Hữu là chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế. Ông
từng là bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hoá, trước khi lên Việt Bắc làm văn nghệ và
tuyên huấn: năm 1951, uỷ viên dự khuyết Trung ương; năm 1955, uỷ viên
chính thức; năm 1960, bí thư Trung ương; năm 1976, uỷ viên dự khuyết Bộ
Chính trị. Tại Đại hội V, Tố Hữu được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ coi là nhân
sự chuẩn bị cho chức vụ Tổng bí thư nên đã đưa vào Bộ Chính trị giữ chức
phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Ông bị mất hết uy tín sau
thất bại của vụ giá-lương-tiền và thất cử vào Ban chấp hành Trung ương
khoá VI. Tố Hữu không phải là người chịu trách nhiệm cao nhất trong vụ
“Nhân văn-Giai phẩm”. Nhưng ông đã quá sắt đá khi nhận thanh gươm từ
Đảng Cộng sản Việt Nam để xử trảm những người dám chê thơ ông. Tố Hữu có
ảnh hưởng lớn đối với nền giáo dục Việt Nam với tư cách là ông trùm làm
thơ tuyên truyền. Khi Tố Hữu còn nắm quyền, đề thi văn hàng năm nếu học
sinh không bình thơ Hồ Chí Minh thì cũng phải làm những bài luận về thơ
Tố Hữu. Không chỉ qua thơ, Tố Hữu còn ảnh hưởng tới nền giáo dục Việt
Nam với tư cách là một người đóng vai trò ban hành chính sách. Cuộc cải
cách giáo dục bắt đầu từ năm 1979 và tạo ra diện mạo nền giáo dục Việt
Nam hiện nay là theo Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị. Nghị quyết mà Tố
Hữu tham gia với vai trò là người chủ trì soạn thảo.
(86) Hoàng Cầm nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương việc
bắt giữ ông, vì căm ghét Hoàng Cầm dám chê thơ ông ta và “dám nổi
tiếng” hơn ông ta trong kháng chiến! Lúc đầu Hoàng Cầm được hứa thả
trước Tết năm 1983. Nhưng, trước Tết, một số trí thức Pháp do Thiền sư
Thích Nhất Hạnh vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ
Hoàng Cầm. Tin đến tai Tố Hữu và theo Hoàng Cầm, Tố Hữu phán: “Nước
ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết!”. Hoàng Cầm bị
giam từ 20-8-1982 cho tới trước Giáng Sinh 1983, tổng cộng mười sáu
tháng. Hoàng Hưng, bị giam tổng cộng ba mươi chín tháng, ông chỉ được
thả vào cuối năm 1985.
(87) Nhân Danh Công Lý (Võ Khắc Nghiêm-Doãn Hoàng Giang), Tôi và Chúng
Ta (Lưu Quang Vũ), Mùa Hè ở Biển (Xuân Trình), Bài Ca Giữ Nước (Tào
Mạt), Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt (Lưu Quang Vũ).
(88) Nhân vật mà theo huyền thoại được nói là gián điệp ám sát Hồ Chí
Minh nhưng sau đó được “bác Hồ” thu phục làm người bảo vệ.
No comments:
Post a Comment