Một người tị nạn Việt Nam đã cố gắng tự tử để chống lại lệnh hồi
hương, được cảnh sát kéo đi tại một trại tị nạn ở Philippines hôm
17/3/1995
Biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc Việt
Nam. Cũng từ đây, lịch sử hiện đại Việt Nam phải ghi nhận thêm một sự
kiện đau đớn của dân tộc khi hàng triệu người dân chấp nhận làm thân
phận của kẻ ly hương, rứt ruột rời xa gia đình, xa xóm làng, xa tất cả
những gì thân quen nhất để tìm đường đến đất tự do.
Không thể quên
Chuyến ra đi của mỗi người là một câu chuyện rất riêng, không ai
giống ai, nhưng tất cả đều là một hành trình không quên trong cuộc đời
của họ, dù thời gian hơn 30 năm đã trôi qua.
Sơn Trần, một kỹ sư điện toán đang sống tại San Jose, miền Bắc
California, đặt chân đến phi trường Los Angeles vào một đêm mùa thu năm
1984, cũng không quên 3 chuyến vượt biên của mình khi đang còn là sinh
viên đại học Bách Khoa Sài Gòn.
Sơn kể dưới sự móc nối của ba má anh từ miền Trung ra Vũng Tàu, anh
vượt biên năm 1983, lúc đang học đại học bách khoa ở Sài Gòn.
Không kể vài lần xuống nhà tay tổ chức nằm cả đêm rồi sáng hôm sau
lại mò về thành phố vì bị “bể” thì lần vượt biên thành công là lần thứ
3, sau 2 lần thực sự bước lên tàu rồi quay về. Cả ba lần anh đều đi ở Bà
Rịa.
Theo lời anh Sơn, một lần tàu chạy ra khỏi cửa biển Vũng Tàu nửa ngày
rồi phải quay trở lại vì tàu vô nước và tay tài công đầy kinh nghiệm
không chịu đi tiếp vì biết chắc là đi là chết.
Một lần khác khi anh đã trèo lên tàu và tàu rời bãi nhưng 'dân đi
hôi' bám theo bát nháo quá khiến người tài công sợ, ôm la bàn nhảy xuống
lội vô bờ chạy trốn. Anh Sơn cùng với những người còn lại trên tàu cũng
chạy tán loạn.
Lần đó trời gần sáng anh mò lên đường cái đón xe đò Bà Rịa về lại Sài
Gòn mà túi không có một đồng. Người lơ xe ngó thấy anh chân và ống quần
bết bát bùn biết ngay là dân vượt biên không thành. Người lơ xe thấy
tội nghiệp nên kêu anh trèo lên nóc xe ngồi.
Tuy nhiên, anh Sơn cho rằng số anh hên, đi lên đi xuống Sài Gòn-Bà Rịa-Vũng Tàu nhiều lần vậy mà không lần nào bị tóm.
Lần vượt biên cuối cùng cũng như mơ.
Qua mấy ngày lênh đênh trên biển mửa thốc mửa tháo tới mật xanh, rồi
thì tàu cũng ra tới hải phận quốc tế và được tàu hàng Pháp đi ngang bắt
gặp vớt vô Singapore.
Sơn ở Singapore hơn 3 tháng, được đưa qua Galang Indonesia học
Cultural Orientation 6 tháng, rồi được đưa về lại Singapore để đi Mỹ vì
có người anh bên Mỹ bảo lãnh.
Sơn Trần tâm sự:
“Tôi bước xuống LAX một đêm Mùa Thu năm 84. Anh chị tôi đi đón. Trời
bên ngoài tối đen nhưng đèn đường và đèn xe sáng rực. Tôi biết cuộc đời
sẽ thay đổi khá hơn từ đó, vì dù bóng đêm có bao phủ cả bầu trời nhưng
đây đó vẫn có những bóng đèn đường rọi sáng những bước chân dọ dẫm làm
lại cuộc đời, và nhất là mình biết chắc ngày mai bình minh sẽ trở lại.”
Nếu như hầu hết những người liều mình đi tìm hai chữ “tự do” không
thể rời Việt Nam từ thời điểm 30 Tháng Tư thì phần lớn đều chọn con
đường vượt biên, bất chấp mọi hiểm nguy. Nhưng với ông Franklin Đắc
Nguyễn, cư dân thành phố Anaheim ở miền Nam California, thì câu chuyện
tị nạn cộng sản của ông khi đang là bộ đội đóng quân tại Battambang ngay
sát biên giới Cambodia và Thái Lan, cũng khiến người ta phải suy nghĩ.
“Từ phi trường Phụng Dục, Buôn Mê Thuột, nhóm chúng tôi được lệnh
không vận bằng những chuyến bay thổ tả thời Liên Xô xưa cũ để lại. Cứ
thế sau vài giờ bay, chúng tôi đã có mặt tại Siem Reap vào đầu mùa mưa
cuối Thu 1979. Cả một thệ hệ tuổi trẻ của chúng tôi 18, 19 tuổi ăn chưa
no, lo chưa tới, nhưng 'sinh Nam tử Camp' thì cầm chắc trong tay. Biết
thì biết thế, nhưng chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác hơn!
Những ngày sống trên đất Miên là những ngày chúng tôi bị bủa vây bởi
sự chết chóc, lo sợ, kinh hoàng. Sống trong cảnh màn trời chiếu đất nơi
rừng thiêng nước độc, ngày chiến đấu, đêm về di động, hoán chuyển vị
trí. Chúng tôi có cảm tưởng mình như loài thú hoang ghẻ lạnh, sống lây
lất bên lề xã hội chờ ngày Chúa Phật gọi về.”
Theo ông Franklin, tình hình chiến sự mỗi ngày một căng thẳng, ông
lại được điều động về Battambang, sát biên giới Thái, nơi trận chiến
đang xảy ra khốc liệt. Nhóm của ông tất cả 7 người đồng lòng với quyết
định táo bạo là cố tìm sự sống trong cái chết đang rình rập đợi chờ. Mọi
người tự nguyện ra đầu thú với nhà chức trách Thái Lan sau một ngày đêm
băng rừng vượt suối trực diện với nhiều hiểm nguy bên mình. Đến được
đồn lính biên phòng của người Thái là họ đã biết mình bước những bước
đầu tiên đến đất tự do.
Ông Franklin nhớ lại:
“Cả một khu vực biên giới Thái-Miên náo động lên vì sự xuất hiện của
chúng tôi, cả hai bên đều ngần ngại, sợ, nghi ngờ nhận diện lẫn nhau. Họ
bắt buộc chúng tôi, ngay lập tức trở lại biên giới để vứt bỏ những vũ
khí mà chúng tôi lỡ mang theo để phòng thân và quay trở lại gặp họ điều
tra tiếp.
Sau vài tuần thanh lọc, điều tra và với lòng thành tâm, thiện chí của
chúng tôi, họ đã liên lạc với ủy ban Liên Hợp Quốc nhờ can thiệp và
giúp đỡ, hợp thức hóa ý nguyện của chúng tôi.
Trong một thời gian ngắn, 7 đứa chúng tôi đã thay da, lột xác trở
thành người tị nạn cộng sản như vài ngàn người Việt, Miên, Lào hòa mình
trong trại tị nạn NW9, cạnh biên giới Thái-Miên, chờ ngày nhận lãnh đi
một đệ tam quốc gia.
Tất cả 7 đứa chúng tôi đồng lòng xin đi Mỹ định cư dù thời gian phải chờ đến thiên thu cũng chấp nhận.”
Nhưng ông Trời không phụ lòng người có kiên trì chờ đợi, chỉ chừng
sáu tháng sau đó, tất cả 7 người trong nhóm ông Franklin được chấp nhận
cho sang Mỹ định cư qua chương trình bảo lãnh của các hội từ thiện bên
này.
Sự tự do là vô giá, họ đã phải đánh đổi biết bao mồ hôi, nước mắt,
bao nhiêu vong linh, xương máu của bạn bè, của nhân dân, của những người
kém may mắn nằm lại. Hơn 30 năm qua đi, thời gian cứ mãi đong đưa.
Nhiều đêm về, nhiều người trong số họ thực sự không rõ mình đang ở đâu
trong cõi đời này. Có những người cảm thấy hạnh phúc, quên đi những năm
tháng cơ cực ám ảnh đã qua. Có những người, nỗi ám ảnh của những ngày
đen tối nhất cuộc đời cứ dai dẳng, đeo đuổi trong suốt quãng đời còn
lại.
No comments:
Post a Comment