Vào ngày 7.5.1988, chưa đầy hai tháng sau
kiện Gạc Ma, tướng Lê Đức Anh – bấy giờ là Bộ trưởng Quốc phòng VN có
mặt tại Trường Sa nhân cuộc mít tinh kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Quân
chủng Hải quân. Tại đây, ông đã đọc một bài diễn văn quan trọng. Đáng
chú ý là một số đoạn trong bài diễn văn ca ngợi “sự giúp đỡ của TQ đối
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong những năm từ 1965
đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân VN vô cùng biết ơn sự
giúp đỡ to lớn đó của nhân dân TQ đã dành cho mình”.
Diễn văn tiếp tục
khẳng định: “tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó
sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc VN những tội lỗi mà
các triều đại phong kiến TQ đã gây đau khổ cho dân tộc VN suốt hàng ngàn
năm đô hộ”. Ta cũng nhận thấy, mặc dù đoạn kết của bài diễn văn có nói
đến các chiến sỹ hy sinh vì Tổ quốc nhưng không hề có một chữ nào trực
tiếp nhắc đến 64 người lính VN vừa hy sinh trong nỗ lực bảo vệ đảo Gạc
Ma ở Trường Sa.
Tất nhiên, chúng ta hiểu, phản ứng đó của
tướng Lê Đức Anh là một thông điệp của VN gửi đến TQ và chắc rằng TQ sẽ
nghiên cứu rất kỹ càng, tìm xem trong đó ẩn chứa cái gì. Người TQ là
bậc thầy trong việc phát đi những thông điệp, tỷ như Nhân dân Nhật báo
TQ bất ngờ đăng một tấm ảnh nhà báo Mỹ Edga Snow đứng bên cạnh Mao Trạch
Đông trên lễ đài Thiên An Môn trong bối cảnh quan hệ hai nước đang diễn
ra căng thẳng. Đáng tiếc (cho TQ) là Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã bỏ qua tín
hiệu này vì có lẽ họ đã không thể nhận ra được sự tinh tế của hành động
đó.
Một điều cần lưu ý, phản ứng của VN trước
sự khiêu khích của TQ ngày 14.3.1988 tại Trường Sa chưa hẳn là một phản
ứng tức khắc, nghĩa là vẫn còn có thời gian lựa chọn. Một phản ứng tức
khắc bao giờ cũng là việc khó khăn hơn. “Lúc đó, phía ta cũng có nhiều ý
kiến khác nhau về quyết định đánh hay không đánh. Bản thân chỉ huy
trưởng Giáp Văn Cương muốn đánh, nhưng cuối cùng chúng ta đã quyết định
đấu tranh bằng pháp lý để bảo vệ chủ quyền” (theo Thượng tá Hoàng Hoan).
Phản ứng “đấu tranh bằng pháp lý” của VN
dẫn đến một hệ lụy lịch sử: những người lính VN (chỉ còn cách) nắm tay
nhau làm thành một “vòng tròn bất tử” nhưng cũng không thể bảo vệ được
Gạc Ma. Trong tình huống đó, đối diện với quân TQ hung hãn và tàn ác,
những người lính anh dũng của VN có thể làm gì hơn là phải chấp nhận hy
sinh?
Còn đây là một phản ứng khác của VNCH.
Khi nhận được báo cáo về sự khiêu khích của tàu TQ ở khu vực Hoàng Sa,
Tổng thống Thiệu phản ứng rất nhanh chóng, quả đoán, kiên quyết: “tìm
cách ôn hòa mời các chiến hạm TQ ra khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi
hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan
cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ VNCH”.
Phản ứng của Tổng thống Thiệu dẫn đến một hệ lụy lịch sử – hải quân VNCH
chấp nhận giao chiến với hải quân TQ để bảo vệ Hoàng Sa trước sự gây
hấn liên tục và xâm lăng của họ. Dù rằng kết cục sau trận hải chiến là
toàn bộ Hoàng Sa rơi vào tay TQ nhưng ý nghĩa lịch sử của trận đánh,
tinh thần dám đánh, tính cách anh hùng, lòng dũng cảm và sự hy sinh của
những người lính VN đã làm cả thế giới tôn trọng và lịch sử sẽ còn ghi
nhớ mãi.
Thời gian gần đây, chúng ta đã chứng kiến
rất nhiều phản ứng của VN về vấn đề biển Đông, nói chung hầu hết không
phải là những phản ứng nhanh chóng, trong khi không ít những tình huống cần phải có phản ứng ngay.
Ngược lại, người ta cho rằng nhiều phản ứng của VN lại quá chậm. Sự
kiện mới đây, một tàu cá VN bị quân TQ bắn cháy ngày 20.3.2013, mãi tới
năm ngày sau (25.3.2013), VN mới có phản ứng. Lập tức, ngày hôm sau,
Hồng Lỗi – người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ đáp trả với sự xuyên tạc vừa
xấc xược, vừa ngạo mạn. Ông ta không hiểu rằng, vấn đề bi đát của TQ
không phải là sự thật đương đầu với sự dối trá mà là sự thật đương đầu
với sự thật.
Phân tích chuỗi các sự kiện, chúng ta có
thể hiểu các phản ứng của VN về vấn đề biển Đông. Nhìn chung, các phản
ứng đó thường khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của VN trên biển
Đông, tiếp đó phản đối hành động của TQ, sau cùng là nêu một số yêu cầu
hoặc đề nghị với TQ. Ngôn ngữ, ý tứ, giọng điệu thường giống nhau, trong
khi các sự kiện liên tiếp diễn ra và tính chất, mức độ, quy mô của các
sự kiện ngày càng nghiêm trọng. Liệu ai có thể đoán biết được những phản
ứng đó sẽ dẫn đến những hệ lụy lịch sử gì? Người TQ, như đã nói ở trên,
là bậc thầy của những thông điệp, họ sẽ nghiên cứu rất kỹ phản ứng của
VN để vạch ra chiến lược của mình. Đó là điều rất hiển nhiên.
“Mỹ họ sẽ nghiên cứu rất kỹ đấy” – lời
của Hồ Chí Minh chỉ thị cho ông Nguyễn Minh Vỹ – người sau này tham gia
cuộc hòa đàm Pari và một Tiểu ban có nhiệm vụ soạn thảo một bản Tuyên bố
vào thời gian Hoa Kỳ đưa nhiều quân vào Nam VN lập Bộ chỉ huy quân sự
và cũng là thời điểm Mặt trân Dân tộc giải phóng miền Nam VN ra đời. Ông
Vỹ và Tiểu ban soạn thảo đã cân nhắc từng câu từng chữ hết sức chặt chẽ
khi soạn thảo bản Tuyên bố. Chẳng hạn, tố cáo Hoa Kỳ “tăng cường chiến
tranh” hay “mở rộng chiến tranh”? Hành động của Hoa Kỳ là “uy hiếp” hay
“uy hiếp trực tiếp” toàn vẹn lãnh thổ VNDCCH? Đối với cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam thì “hoan nghênh” hay “biểu dương ca ngợi”? Đấu tranh
theo “tinh thần cương lĩnh” hay “cương lĩnh” của Mặt trận? Đối với miền
Bắc thì kêu gọi “ủng hộ” hay “tích cực ủng hộ” để làm “thất bại” hay
“đánh bại” âm mưu của Hoa Kỳ? Dự thảo của bản Tuyên bố được Hồ Chí Minh
xem xét, sửa chữa rất kỹ, sau đó còn chuyển cho các ông Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng có ý kiến. Đó quả thật là những phản ứng lịch sử.
Hai năm sau, “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nổi
tiếng xẩy ra. Quốc hội Hoa Kỳ, với số phiếu tuyệt đối, nhất trí thông
qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép Tổng thống Johnson, với tư cách là
Tổng Tư lệnh quân đội, “thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm đánh lui
mọi hành động tấn công vũ trang chống các lực lượng Hoa Kỳ và ngăn ngừa
những hành động xâm lăng khác”.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một bước ngoặt
có ý nghĩa rất lớn, liên quan đến cuộc chiến VN. Bấy giờ, ý định của các
nhà lãnh đạo Bắc VN là hạn chế chiến tranh ở miền Nam, không để lan ra
miền Bắc.
Cuộc đụng độ ngày 2.8 là rất rõ ràng.
Theo tướng Hoàng Nghĩa Khánh, vào ngày 2.8.1964, khi hải quân báo cáo
lên Bộ Tổng tham mưu có khu trục hạm Mỹ đi vào hải phận VN và xin chỉ
thị. Trực chỉ huy là tướng Trần Quý Hai trả lời: “Ủa! Cách xử trí như
thế nào à? Tàu địch vào hải phận của ta thì phải đánh chứ còn chờ gì
nữa”. Thật là đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Theo Huy Đức, tác giả
Quyền Bính – Bên Thắng Cuộc cho biết “Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ
Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo
ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói,
“mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế”.
Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh
này là ai”.
Còn cái gọi là cuộc tiến công ngày 4.8
thì đến nay vẫn còn tranh cãi. Mặc dù các thủy thủ Hoa Kỳ báo cáo có
tổng cộng 22 quả ngư lôi phóng về phía họ và ít nhất ba tàu Bắc VN bị
bắn trúng trong một trận giao tranh kéo dài 4 giờ, nhưng lại không đưa
ra được bằng chứng nào ? Trận đánh diễn ra trong một đêm tối trời, không
có trăng sao và sấm chớp đầy trong khu vực. Người ta cho rằng dường như
các tàu khu trục đã hành động như những kẻ thần hồn nát thần tính. Mc
Namara nói, có thể lúc ấy, Mỹ có hai phán đoán sai lầm nghiêm trọng.
Từ trong lịch sử, chúng ta thấy, phản ứng
về các sự kiện liên quan đến biển Đông của VN rất khác nhau, tùy thuộc
tính chất của sự kiện, phẩm chất người lãnh đạo, chỉ huy, tùy thuộc vào
hoàn cảnh, tình huống và vì vậy, nó dẫn đến những hệ lụy lịch sử khác
nhau. Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh luôn luôn
đúng trong mọi trường hợp. Nhưng vấn đề ở chỗ, cái “bất biến” của VN
hiện nay là gì? Đó chính là chủ quyền quốc gia, là hòa bình nhưng phải
là hòa bình trong độc lập, tự do. Và đó cũng là danh dự VN!
Blog Lê Mai
No comments:
Post a Comment