Giáo sư Lý Hiểu Binh, tác giả các cuốn sách và bài viết
về quân đội Trung Quốc, cũng trình bày lại cách nhìn từ Bắc
Kinh về trận hải chiến Hoàng Sa 1974.
Quan hệ Trung Xô đổi hướng
Vào ngày 31/3/1968, Tổng thống
Lyndon Johnson tuyên bố tạm ngưng ném bom miền Bắc Việt Nam để
bày tỏ một thiện chí hòa bình, và đã nhận được phản hồi
tích cực từ Hà Nội qua tuyên bố ngày 4 tháng 4 rằng họ sẵn
sàng thảo luận với người Mỹ.
Trung Quốc chỉ biết về chuyện Hoa Kỳ và
Bắc Việt Nam (DRV) đàm phán với nhau mãi về sau này. Vào
khoảng tháng 4 và 5, Bắc Kinh bắt đầu phê phán Hà Nội đi theo
Moscow. Sau khi đàm phán tại Paris bắt đầu ngày 13/5/1968, Trung
Quốc vẫn tiếp tục chỉ trích Bắc Việt nói chuyện với Hoa Kỳ.
Ngày 31/10, Tổng thống Johnson ngưng oach tạc Bắc Việt cả trên
đất liền và vùng ven biển. Trong lúc Bắc Kinh kiềm chế không
tham gia hội đàm Paris thì Moscow, trái lại, luôn hào hứng ủng
hộ đàm phán. Bắc Việt Nam bắt đầu dịch chuyển lại gần Liên
Xô.
Cùng thời gian ban lãnh đạo Trung Quốc bắt
đầu cảm thấy có bằng chứng rằng Hoa Kỳ đã là cường quốc
mất dần ảnh hưởng vì thất bại của họ tại Việt Nam, trong khi
Liên Xô lại chiếm ngay ‘khoảng trống quyền lực’ đó và bắt đầu
thay chân Mỹ để thành ‘đế quốc xâm lăng’. Trung Quốc và các
nước châu Á khác dễ trở thành mục tiêu của ‘chủ nghĩa đế
quốc Xô Viết’. Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Nguyên soái Lâm
Bưu và cộng sự coi Liên Xô là mối đe dọa trực tiếp hơn Hoa Kỳ.
Quan niệm của Lâm Bưu được các cấp chỉ huy
và binh sỹ Quân Giải phóng tán đồng vì họ trực tiếp chứng
kiến sự thù địch gia tăng của Liên Xô với Trung Quốc. Trong cuộc
xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968, quân Liên Xô đã tràn vào Đại sứ
quán Trung Quốc ở Praha, tập phá và đánh tàn bạo các nhà
ngoại giao Trung Quốc. Khi căng thẳng hai bên lên cao, Liên Xô triển
khai một số lượng lớn quân đội dọc biên giới Trung – Xô, từ 17
tăng lên tới 27 sư đoàn vào cuối 1968.
Chu Ân Lai cũng từng nói thẳng với Phạm
Văn Đồng vào ngày 29/4 rằng: “Nay Liên Xô đang bao vây Trung Quốc
và vòng vây đó đã gần trọn, chỉ còn phía Việt Nam là chưa.”
Lâm Bưu ra lệnh cho Quân Giải phóng sẵn sàng chiến đấu chống
trả Liên Xô một khi có xâm nhập.
"Hai ông Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ở Hà Nội năm 1960. Ông Hồ đã mời Trung Quốc cử quân đội sang Bắc Việt Nam hỗ trợ nỗ lực chiến tranh"
Các nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng
có một sự thay đổi chiến lược trong tư duy của Trung Quốc năm
1968. Vì coi Liên Xô là mối đe dọa hàng đầu, Trung Quốc cho rút
quân khỏi Việt Nam mà trước đó họ sang theo lời mời của ông Hồ
Chí Minh để đề phòng bị tấn công từ phía Bắc. [Trên thực tế]
liên minh cộng sản ở Đông Nam Á coi như tan rã.
Ngày 17/11/1968, Mao nói với Thủ tướng Bắc
Việt, Phạm Văn Đồng rằng một số đơn vị Trung Quốc sẽ rút về
nước và Trung Quốc “sẽ gửi quân trở lại nếu người Mỹ quay
lại”.
Vào tháng 3/1969, theo thỏa thuận giữa hai
quân đội, Quân Giải phóng bắt đầu rút về, giảm dần từ 16 sư
đoàn, gồm 150 nghìn quân, xuống không còn đơn vị phòng không nào
ở Bắc Việt Nam vào tháng 7/1970.
Trong thời gian ở Việt Nam, Quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tham gia 2153 trận, bắn rơi 1707 máy
bay Mỹ và làm hư hại 1608 chiếc trong trận Sấm Rền (Rolling
Thunder) hay ‘Chiến tranh phá hoại miền Bắc’ theo cách gọi của
Hà Nội.
Liên Xô thay dần Trung Quốc
Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có va chạm
dọc biên giới Trung – Xô. Các vụ bắn nhau xảy thường xuyên trong
cả năm, và hai nước ở vào thế sắp lâm chiến. Sang đầu năm 1970,
Liên Xô triển khai tới 48 sư đoàn, bằng gần một triệu quân dọc
đường biên. Có tin rằng lãnh đạo Liên Xô tính cả đến cách dùng
vũ khí nguyên tử để ‘đánh phủ đầu’ Trung Quốc. Hậu quả của
tình hình đó là Quân Giải phóng tăng cường lực lượng lên tới
tổng số sáu triệu quân, cao nhất trong lịch sử của họ.
Một tài liệu của CIA 12/8/1969 dự báo rằng:
“Gần như căng thẳng Trung – Xô sẽ không thể
nào giảm trong vòng hai ba năm tới. Vì quyền lợi quốc gia xung
đột nhau, vì sự cạnh tranh nhằm lãnh đạo phong trào cộng sản
quốc tế, và sự lo sợ có thực về ý định của nhau sẽ khiến
việc tiếp cận gần gũi không thể xảy ra. Vấn đề biên giới cũng
sẽ không dễ giải quyết.”
Sau khi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam
và giảm viện trợ cho Hà Nội, Liên Xô ngay lập tức bù vào chỗ
trống và còn tiếp tục hỗ trợ kinh tế, quân sự cho Bắc Việt
Nam. Từ 1969 đến 1971, Moscow ký bảy hiệp định viện trợ cho Hà
Nội. Năm 1972, Liên Xô tiếp tục tăng cường hệ thống phòng thủ
bằng tên lửa ở Bắc Việt Nam.
Điều thú vị là các lãnh đạo Trung Quốc
cũng khuyến khích phía Việt Nam yêu cầu thêm viện trợ từ Liên
Xô. Chẳng hạn như Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đã nói với Thứ
trưởng Ngoại thương Bắc Việt Nam, ông Lý Ban, vào năm 1971, rằng
“Các đồng chí cần yêu cầu Liên Xô chuyển nhiều, càng nhiều
càng tốt vũ khí, đạn dược, lương thực”.
Khi Chủ tịch Ban thường vụ Quốc hội
Trường Chinh thăm Bắc Kinh năm 1972, Thủ tướng Chu Ân Lai nói với
ông rằng Bắc Việt Nam cần đòi hỏi nhiều hơn vũ khí, quân trang
quân dụng từ Liên Xô.
"Từ những năm 1968-69, Liên Xô tăng cường nhiều sư đoàn quân đội đến biên giới với Trung Quốc"
Với Bắc Kinh, cam kết hỗ trợ liên tục cho
cuộc chiến tranh tại Đông Dương đã và đang làm hao hụt nguồn
lực của Liên Xô. Ngoài ra, mối đe dọa từ Liên Xô đã thúc đẩy
lãnh đạo Trung Quốc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ. Nhu cầu
chiến lược này cuối cùng đã đưa tới chỗ bình thường hóa quan
hệ Mỹ – Trung vào nửa đầu thập niên 1970.
Về tác động của nó đến cuộc chiến tại
Đông Á và Chiến tranh Lạnh, giao ước Mỹ – Trung đã tạo ra thay
đổi bước ngoặt trong thế chiến lược giữa hai cường quốc thời
Chiến tranh Lạnh. Nếu như các nhà hoạch định chính sách ở
Washington thấy nhờ đó mà việc tập trung nguồn lực và quan tâm
chiến lược của Mỹ vào đối phó với Liên Xô dễ dàng hơn, Liên Xô
lại coi việc phải đương đầu cùng lúc với Phương Tây và Trung
Quốc là chuyện khiến sức mạnh của họ bị phân tán nghiêm
trọng.
Không nổ súng trước
Quần đảo Hoàng Sa hay Paracels mà Trung
Quốc gọi là Tây Sa nằm cách Đà Nẵng chừng 170 hải lý, giữa
vĩ tuyến 15'45" và 17'05" và kinh tuyến đông 111'00" và 113'00".
Quần đảo này gồm khoảng từ 15-30 hòn đảo, tùy cách tính...Sau
hai thập niên quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng giữ, năm 1974,
Hoàng Sa đã bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa chiếm bằng vũ
lực.
Nằm cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 330
hải lý về phía Đông Nam, quần đảo Hoàng Sa gồm các nhóm đảo
Tuyên Đức (tên Việt Nam: nhóm An Vĩnh - BBC) và Vĩnh Lạc (nhóm
Lưỡi Liềm) và chừng 30 đảo nhỏ khác nằm trải rộng trên khoảng
15 nghìn km2. Đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) là đảo lớn hơn cả, có
diện tích 1,6 km2 và hiện nay chính quyền Hải Nam và Quân Giải
phóng có trụ sở chính…
Vào tháng 9/1973, VNCH ra tuyên bố sáp nhật
đảo Nam Yết và Thái Bình ở Trường Sa cùng 10 đảo khác thuộc
vào lãnh thổ trên đất liền (tỉnh Phước Tuy- BBC) nhằm giữ
quyền khai thác nguồn lợi thiên nhiên như dầu. Ngày 11/1/1974, Bộ
Ngoại giao Trung Quốc ra công bố chính thức “xác nhận chủ
quyền của nước này Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa và Đông Sa và toàn
bộ các nguồn lợi tự nhiên xung quanh là thuộc về CHND Trung
Hoa”.
Ngày 15/1/1974, Hải quân VNCH gửi một khu
trục hạm ra vùng biển quanh đảo Vĩnh Lạc. Sang ngày 16, phía
Nam Việt Nam bắn vào đảo Cam Tuyền (Việt Nam: đảo Hữu Nhật)
buộc các tàu đánh cá của Trung Quốc phải rời vùng này. Sang
ngày 17, phía Việt Nam cử một khu trục hạm nữa chở quân lính
đến chiếm Cam Tuyền và Kim Ngân (đảo Quang Ảnh) và nhổ cờ Trung
Quốc. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (1897-1986), Bộ trưởng Quốc
phòng và Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương đã hạ lệnh cho Hải
quân Quân Giải phóng trực chiến và sẵn sàng mở chiến dịch bảo
vệ Tây Sa.
Nhằm bảo vệ chủ quyền và quyền đánh bắt
cá, chính phủ Trung Quốc đã quyết định có biện pháp trước
tình hình này. Các tàu cá tiếp tục hành nghề nhưng luôn chú
ý đến các hoạt động của Hải quân VNCH. Cùng lúc, Hải quân
Trung Quốc triển khai hai chiến hạm săn tàu ngầm số 271 và 274
đến đảo Vĩnh Lạc để bảo vệ ngư dân và dân quân Trung Quốc; hai
tàu quét mìn cũng được cử đến, cùng các nguồn cung ứng nước
ngọt và tiếp liệu. Chiến lược của Trung Quốc là không nổ súng
trước nhưng nếu Nam Việt Nam khai hỏa trước thì Trung Quốc sẽ
đánh trả tàn bạo. Nguỵ Minh Sâm, chỉ huy trưởng của căn cứ hải
quân Ngọc Lâm được phong làm ‘tư lệnh chiến dịch bảo vệ Tây
Sa’.
Ngày 17/1, hai chiến hạm săn ngầm của Trung
Quốc chở một số dân quân ra Tấn Khánh (tên Việt Nam: Duy Mộng),
và Sâm Hàng (Quang Hòa). Khi đến khu vực này họ chứng kiến hai
tuần dương hạm số 4 và 16 của VNCH đã bắn vào thuyền cá Trung
Quốc. Phía Trung Quốc cảnh báo phía Việt Nam ngay lập tức và
yêu cầu ra khỏi khu vực. Ngày 18/1 hai khu trục hạm Việt Nam quay
lại và bắn vào các tàu cá Trung Quốc tám lần, phá hỏng một
thuyền phía Bắc bãi Linh Dương (đá Hải Sâm).
Đến tối, phía Nam Việt Nam cử thêm tuần
dương hạm số 5 (Trần Bình Trọng) và hộ tống hạm số 10 (Nhật
Tảo) vào vùng nước cạnh Vĩnh Lạc. Như thế có bốn chiến hạm
Nam Việt Nam trong khu vực và sau đó, Hải quân Trung Quốc cử thêm
hai tuần ngầm số 281 và 282 tới đảo Vĩnh Hưng.
Mao đồng ý chiếm trọn
Ngày 18/1, theo yêu cầu của Thủ tướng Quốc
vụ viện kiêm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Chu Ân Lai
(1898-1976), Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc họp phiên
đặc biệt cùng nhằm lập ra ban chuyên trách năm người để ứng
phó với tình hình. Các vị Diệp Kiếm Anh, chủ nhiệm ban chuyên
trách, cùng Vương Hồng Văn (1935-1992), Trương Xuân Kiều
(1917-2005), Đặng Tiểu Bình (1904-1997) và Trần Tích Liên
(1915-1999) đã nghe Tô Chấn Hoa (1912-1979), Phó Tư lệnh Hải quân
báo cáo tình hình và đề nghị phản công.
"Sau khi chiến đấu được 1 giờ 37 phút, chiến hạm số 10 (Nhật Tảo) của Hải quân VNCH bị hư hỏng nặng"
Ban chuyên trách đã ngay lập tức công bố
bản hướng dẫn nhằm đánh lại các tuần dương hạm của VNCH tại
đảo Vĩnh Lạc. Căn cứ vào bản hướng dẫn này, phía Trung Quốc
đã chuẩn bị cho chiến dịch.
Vào 4:10 chiều ngày 18/1, ba tàu tuần dương
của Việt Nam đã lập thành một đội hình nhằm tiến vào chỗ
hai tàu săn ngầm số 271 và 274 của Trung Quốc. Hai tàu này nhổ
neo và lao tới tăng hết tốc lực chặn đội tàu Việt Nam. Các
tàu VNCH vì thế đã quay lại. Vào lúc 7:00 sáng ngày 19/1, hai
tàu số 4 và số 5 của VNCH đem hơn 40 binh sỹ đổ bộ vào hai đảo
Sâm Hàng (Quang Hòa) và Quang Kim (Quang Hòa Tây). Sau cuộc đổ
bộ, hai bên bắt đầu đọ súng.
Một binh sỹ VNCH bị bắn chết, ba người
khác bị thương. Chừng 10:22 sáng, bốn tàu Việt Nam bắn vào tàu
Trung Quốc, phía Trung Quốc bắn trả. Trong loạt đạn đầu tiên,
phía Trung Quốc bắn hỏng ăng-ten cho radar trên tàu số 4 của
VNCH. Tàu VNCH số 16 cũng bị tàu chống ngư lôi của Trung Quốc
bắn trúng và phải rời khu vực. Các tàu Trung Quốc sau đó tập
trung hỏa lực và tàu số 10 của Việt Nam.
Sau khi chiến đấu được 1 giờ 37 phút, các
tàu Việt Nam để lại chiến hạm số 10 bị hư hỏng nặng. Tàu này
tìm cách bơi đến bãi Linh Dương như không được. Hai tàu số 281
và 282 của Trung Quốc đã bắn chìm nó. Cùng thời gian, Diệp
Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa đã báo cáo lên Mao
Trạch Đông và đề nghị Trung Quốc chiếm nốt các đảo do Nam Việt
Nam kiểm soát và Mao đã đồng ý. Sau trận hải chiến thành công
ngoài biển, quân đội Trung Quốc đã đổ bộ xuống Cam Tuyền, San
Hô (đảo Hoàng Sa), Kim Ngân (Quang Ảnh) và chiếm đóng các đảo
này.
Trong trận chiến ‘Bảo vệ Tây Sa’ của Trung
Quốc, có 18 binh sỹ Trung Quốc bị giết, 67 bị thương và phía
Việt Nam có hơn 100 sỹ quan và binh sỹ bị giết hoặc bị thương,
49 người bị bắt làm tù binh.
Giáo sư Lý Hiểu Binh giảng dạy tại
Đại học Central Oklahoma và là tác giả cuốn 'A History of the
Modern Chinese Army'.
No comments:
Post a Comment