Chương 8: Thống Nhất
***
Con gái ông Lê Duẩn, bà Lê Thị Muội, viết: “Gần trưa [30-4] tôi hay
tin là ta đã chiếm Dinh Độc Lập… Tôi hấp tấp ra khỏi Viện Di truyền,
phóng xe máy về nhà vàlao thẳng vào phòng ba tôi. Ở đấy, một mình ba tôi
đang ngồi lặng lẽ… Người ngước mắt cười với tôi, rồi nước mắt bỗng trào
ra… Đột nhiên, tôi thấy thời gian như ngưng lại và ánh sáng trong căn
phòng cũng không còn là thứ ánh sáng thông thường của trời đất nữa” (382).
Nếu như ngày 19-1-1974, Quần đảo Hoàng Sa không bị Trung Quốc chiếm đi,
thì Việt Nam dưới thời ông Lê Duẩn đã bao gồm những gì mà Hoàng đế Gia
Long mở mang và thâu tóm được. Thống nhất giang sơn đã khó nhưng còn khó
hơn khi thống nhất lòng người. Nếu “thời gian ngưng lại” ở thời điểm
30-4-1975, lịch sử chắc chắn sẽ có một cách nhìn khác về vai trò Lê
Duẩn.
Nước Việt Nam là một
Việc ông Lê Duẩn phải chờ ở Đà Nẵng cho tới ngày 9-5-1975 mới vào được
Sài Gòn để chờ “Trung ương Cục chuẩn bị”, theo ông Trần Quỳnh, khi ấy là
trợ lý Lê Duẩn, “đã làm cho anh Ba thoáng có sự lo lắng”.
Cho dù chiến thắng bắt đầu bằng những mệnh lệnh phát đi từ “Tổng Hành
dinh”, nhưng đoàn quân tiến về Sài Gòn trong ngày 30-4-1975 còn mang
theo cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam. Chấm dứt sự tồn tại của một thực thể chính trị được công
nhận bởi hai mươi ba quốc gia sao cho trong ấm, ngoài êm, cũng có nhiều
điều lo nghĩ.
Theo Tướng Giáp, chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam, ngày 20-12-1960, và Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam,
ngày 8-6- 1969, là của “anh Ba và Bộ Chính trị”. Tuy nhiên, lá cờ sao
vàng nửa đỏ nửa xanh của tổ chức này đã từng làm cho không ít người tin
vào những tuyên bố trung lập của “Chính phủ Lâm thời”. Không ít thanh
niên, trí thức miền Nam đã hướng về“Mặt trận”, nhất là khi họ bắt đầu
bất bình với cung cách quan lại của chế độ Ngô Đình Diệm, khó chịu với
sự có mặt của người Mỹ trên đường phố, trong quán bar và sự can thiệp
càng ngày càng sâu của Mỹ vào chính trị.
Ảnh hưởng của Mặt trận có vẻ như tăng hơn khi lôi kéo được nhiều trí
thức có uy tín bỏ Sài Gòn ra chiến khu, trong đó có cả những trí thức đã
từng chống cộng như ông Lâm Văn Tết (383). Đặc biệt, khi Liên minh các Lực
lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm chủ
tịch quyết định ra R thì nhiều người dân miền Nam bắt đầu nghĩ về Mặt
trận như một ngọn cờ chống ngoại xâm thay vì quan tâm tới “bản chất Việt
cộng” của tổ chức mà ai cũng biết là được lập ra từ Hà Nội.
Uy tín của những trí thức trong liên minh này đã giúp Mặt trận gây ảnh
hưởng đến các tổ chức của “lực lượng thứ ba” như: Phong trào Dân tộc Tự
quyết do Luật sư Nguyễn Long làm chủ tịch; Phong trào Bảo vệ Nhân phẩm
và Quyền lợi Phụ nữ do bà Ngô Bá Thành đứng đầu; Lực lượng Bảo vệ Văn
hóa Dân tộc của Giáo sư Lê Văn Giáp; Ủy ban Vận động đòi cải thiện chế
độ lao tù gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, linh mục, như Chân Tín, Nguyễn
Ngọc Lan; Lực lượng hòa giải dân tộc; Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp
định Paris của Luật sư Trần Ngọc Liễng.
Tính đến năm 1975, “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam” do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch đã được hai mươi ba
nước thuộc “phe xã hội chủ nghĩa” và “thế giới thứ ba” công nhận.
Việc thành lập các cơ quan của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam đều
được quyết định bởi Ban Bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Các văn bản của
cơ quan này nói rõ rằng những tổ chức nhân danh chính phủ lâm thời ấy
được lập ra là “do sự cần thiết phải triển khai công tác trên mặt trận
đấu tranh ngoại giao và hoạt động tranh thủ quốc tế trong giai đoạn
chống Mỹ”. Từ cuối năm 1972, chủ trương hình thành ở miền Nam một “chính
phủ ba thành phần” đã gieo không ít hy vọng cho “lực lượng thứ ba”. Bản
thân Tướng Dương Văn Minh, trong tuần lễ vận động để thay thế ông Trần
Văn Hương, cũng đã tính đến khả năng thành lập một “hội đồng quốc gia
hòa giải và hòa hợp dân tộc”.
Nhưng ngay trong ngày 1-5-1975, thái độ của Hà Nội đã được thể hiện dứt
khoát trong Điện 601384 do Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư gửi cho ông Phạm
Hùng, bí thư Trung ương Cục: “Xin báo để các anh biết: theo ý kiến anh
Ba, về chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần. Cấu tạo chính phủ
không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho
quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của Cách mạng”. Số phận của Dương
Văn Minh, người được coi là lãnh tụ của “lực lượng thứ ba”, cũng được
Điện 601 nói rõ: “Những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng
hạn thì không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát”.
Trong chiến tranh, lán của Mặt trận và Chính phủ Lâm thời luôn nằm bên
cạnh “bản doanh” của Trung ương Cục, đó là những căn nhà mái lá dựng
trên thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông ở vùng Sa Mát, Thiện Ngôn. Theo “Thứ
trưởng” Lữ Phương thì “Bộ Văn hóa Thông tin” của ông chỉ gồm vài ba cán
bộ đang làm việc trong Tiểu ban Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Miền. “Bộ
trưởng” Lưu Hữu Phước trước đó là người phụ trách tiểu ban này. Các quan
chức của Chính phủ Lâm thời, kể cả “Chủ tịch” Huỳnh Tấn Phát, cũng chủ
yếu giết thời gian bằng cách đánh cờ hoặc chơi bài tiến lên. Mọi phát
ngôn của Mặt trận, dù lớn hay nhỏ, đều do Trung ương Cục chuyển sang để
các quan chức Mặt trận đọc trước máy ghi âm của Đài Phát thanh Giải
phóng (385).
Hầu hết những thành viên Mặt trận đều là đảng viên, kể cả những người
như bà “Bộ trưởng” Dương Quỳnh Hoa, ông “Bộ trưởng” Trần Bửu Kiếm. Có
người vào đảng từ trước rồi được “phân vai”, có người vào rừng rồi mới
kết nạp, nhưng khi đã vào R, nhận ra “đại cục” mà mình đang tham gia,
hầu hết các thành viên đều để cho Cách mạng sử dụng tên tuổi của mình,
đồng thời trực tiếp diễn xuất với tinh thần của người trong cuộc.
Trong thời điểm lôi kéo người dân trước lựa chọn sinh tử giữa Cách mạng
và Quốc gia, những trí thức Mặt trận này ít nhiều đã tạo niềm tin vào
hòa bình và hòa hợp dân tộc cho những người ở bên kia chiến tuyến. Khi
chiến tranh hoàn toàn kết thúc, những trí thức có lương tâm cũng cắn rứt
trước số phận của những người đã đi theo những lời tuyên bố đứng tên
mình. Nhưng khi vừa về đến Sài Gòn, vai trò của họ cũng bắt đầu chấm dứt.
Không mấy ai trong số họ có cơ hội để thực hiện với dân chúng những lời
đã hứa.
Bản thân mỗi thành viên Mặt trận khi trở lại thành phố cũng đụng chạm
không ít vấn đề cá nhân. Phần lớn biệt thự, điền trang, nhà máy của ngay
cả các nhân vật lớn như Lâm Văn Tết, Trịnh Đình Thảo đã bị Chính quyền
30-4 “tiếp quản”. Quan trọng hơn là khi cầm lấy ngọn cờ Mặt trận, động cơ
của nhiều người là “chống Mỹ” thay vì “ý thức hệ”. Họ không khỏi băn
khoăn khi nhận thấy, ngay trong nhữngngày đầu tháng 5-1975, nhiều địa
phương bắt đầu thống nhất cung cách điều hành theo miền Bắc. Có tỉnh,
chính quyền mới buộc người dân phải xin cấp biển đăng ký cả xe đạp. Có
những chi tiết tưởng là vụn vặt nhưng cũng khiến không ít người miền Nam
chạnh lòng: dân miền Nam đã quen cầm miếng sườn nung núc thịt nạc, nhưng
sau “giải phóng”, mậu dịch viên quốc doanh bán cho họ miếng “sườn” chỉ
còn xương xẩu.
Không ai tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu tốn hàng triệu sinh linh
để kết quả cuối cùng Việt Nam vẫn tồn tại hai quốc gia, nhưng hình ảnh
miền Bắc cũng làm cho không ít trí thức kháng chiến miền Nam băn khoăn.
Nhiều người đã một vài lần được đưa ra miền Bắc, chứng kiến sự lạc hậu
về văn hóa xã hội, sự tàn tạ về kinh tế sau gần hai thập niên xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Bên trong, các thành viên Mặt trận cũng có những ý
kiến gay gắt. Trong phiên họp nội bộ của Hội nghị Hiệp thương Thống
nhất, một số thành viên của Chính phủ Lâm thời đề nghị: đồng ý nguyên
tắc là phải thống nhất, nhưng cần có thời gian để hai phần đất nước chia
cắt có thời gian hòa hợp với nhau. Nhưng, lúc bấy giờ, tiếng nói và vai
trò của Mặt trận có ảnh hưởng vô cùng giới hạn (386).
“Bắc hóa”
Không chỉ có các thành viên Mặt trận và Chính phủ Lâm thời, trong những
ngày ấy, nhiều cán bộ Trung ương Cục trở về thành phố cũng có cảm giác
bơ vơ vì chưa được phân công, trong khi làn sóng cán bộ “chi viện” từ
miền Bắc vào lặng lẽ chiếm lĩnh dần các trụ sở và vai trò then chốt. Nhà
báo Pháp Jean Lacouture, quan sát tiến trình này ở miền Nam, trong một
bài báo đã chơi chữ tiếng Pháp “nordmalisation- Bắc hóa” để thay thế cho
chữ “normalisation-bình thường hóa” (387).
Bản thân Hà Nội cũng bất ngờ trước các phản ứng ở miền Nam. Ngày 21-4-
1975, với tinh thần chi viện mọi mặt cho nửa nước vừa “giải phóng”, Ban
Bí thư gửi Thông tri 316, ra lệnh cho “các ngành ở miền Bắc có trách
nhiệm giúp đỡ xây dựng, kiện toàn ngành mình ở miền Nam”. Điện 316 nhấn
mạnh: “Vì tình hình khẩn trương nên việc điều động cán bộ cũng phải làm
khẩn trương” (388). Tuy nhiên, chỉ sau hơn một tháng, ngày 24-5-1975, chính
Ban Bí thư đã phải điều chỉnh bằng Điện 733: “Nay căn cứ vào điện của
các đồng chí cấp ủy miền Nam, căn cứ vào tình hình mới, chúng tôi định
như sau: Kể từ nay việc điều động cán bộ vào miền Nam công tác, nhất
thiết phải căn cứ vào yêu cầu của các cấp ủy miền Nam. Đối với những cán
bộ, các ban, ngành Trung ương thấy cần thiết điều vào công tác ngắn hạn
hay dài hạn ở miền Nam cũng phải hỏi ý kiến Trung ương Cục, hoặc Khu ủy
V, hoặc hai tỉnh Trị-Thiên, nếu trong đó đồng ý mới được đưa vào” (389).
Ngay từ sau 30-4-1975, theo ông Trần Quốc Hương: không rõ từ đâu, chính
sách sắp xếp, sử dụng cán bộ ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam được đúc
kết bằng công thức “nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết” – có nghĩa là:
những cán bộ bám trụ tại chỗ được coi trọng, tin cậy, bố trí vào những
chức vụ quan trọng được ưu tiên vào hàng thứ nhất; ưu tiên thứ hai là
cán bộ đã chiến đấu ở “khu”, còn gọi là R390, mật danh chỉ Trung ương
Cục, khu bộ, xứ bộ; ưu tiên thứ ba được dành cho những cán bộ đã từng bị
đi tù được tha theo Hiệp định Paris, hoặc mới được cứu ra; ưu tiên cuối
cùng mới dành cho những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từ năm 1954 nay
trở lại.
Không phải tự nhiên mà ông Lê Duẩn phải nhấn mạnh với các nhà lãnh đạo
miền Nam: “Đây là chiến công của cả nước”. Là một người Quảng Trị hoạt
động ở Nam Bộ hàng chục năm, ông Lê Duẩn hiểu và rất nhạy cảm trước các
vấn đề Nam-Bắc. Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc
đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”.
Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không
vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê
Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên
gặp họ”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu:
‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất
nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ
tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: ‘Các đồng chí ra thăm
miền Bắc thấy gì?’. Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không
thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: ‘Các đồng chí không
hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng
có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong
khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc’. Rồi anh Ba hỏi: ‘Ở trong R,
các đồng chí có được dạy, ta đánh được Mỹ là nhờ truyền thống 4000 năm
của Việt Nam không? Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người Việt Nam, không năm
đời, thì mười đời cũng là gốc Bắc. Ra đây là tìm về nòi giống, cội
nguồn’. Khi đoàn ra khỏi phòng, ông Lê Duẩn bảo tôi: ‘Chú xuống Viện
Lịch sử, tìm một nhà sử học dẫn họ đi đến tận nơi thăm đền thờ Hai Bà
Trưng, Bà Triệu’. Khi họ đi về, anh Ba hỏi: ‘Đã hiểu cội nguồn dân tộc
chưa?’. Họ nói: ‘Hiểu’. Anh Ba gật đầu: ‘Bây giờ về được rồi’”.
Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân
và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể,
trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu
uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn
bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước”. Ông Đậu
Ngọc Xuân đã ở lại.
Sáng mùng Một Tết Bính Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời
tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào
bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền
Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ
vét hàng hóa”. Theo ông Đậu NgọcXuân thì trước đó khi nghe bên công an
báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn
tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.
Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy
chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các
chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở
trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị
để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta
không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc
Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.
Trước đó, theo ông Nguyễn Thành Thơ (391): Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc
do ông Lê Duẩn chủ trì, tổ chức sau Hội nghị Trung ương 24 tại trường
Công An Thành phố ở Thủ Đức, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh
nói: “Nên tiến hành ngay thống nhất lãnh thổ, thống nhất đảng, đoàn thể,
mặt trận, nhà nước, quân đội. Nhưng về kinh tế, đề nghị để nó phát triển như nó có, ta xem ưu khuyết,
cái gì phát huy, cái gì bỏ”. Ít lâu sau, tại một hội nghị bàn về văn
hóa diễn ra ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh nói: “Có một số cán
bộ đảng viên không muốn thống nhất để hưởng thụ”. Sau hội nghị đó, ông
Nguyễn Thành Thơ cùng ông Trần BạchĐằng tới nhà ông Lê Đức Thọ, trưởng
Ban Tổ chức Trung ương Đảng. Theo ông Thơ, ông Đằng và ông Thọ cãi nhau
đến mức, phải “đứng lên, ngồi xuống, quơ tay nhiều lần”. Ông Lê Đức Thọ
nói: “Kinh tế là nền tảng, không thống nhất kinh tế, tất cả vấn đề khác
thống nhất không có ý nghĩa”.
Cũng trong thời gian này, tại khu biệt thự của Trung ương ở Hồ Tây, ông
Trường Chinh gặp ông Nguyễn Văn Linh và ông Phan Minh Tánh, lúc đó là
phó bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Theo ông Tánh, ông Trường Chinh
nói: “Linh ơi, người ta nói cậu không muốn thống nhất đấy”. Đề nghị
“thống nhất chính trị trước, thống nhất kinh tế sau” không phải là sáng
kiến của ông Nguyễn Văn Linh. Ngày 13-8-1975, tại Hội nghị Trung ương
đầu tiên sau ngày “giải phóng miền Nam”, trong phát biểu của mình, ông
Lê Duẩn cho biết là cả ông và ông Trường Chinh đều cho rằng nếu đưa mô
hình kinh tế có “một số sai lầm” của miền Bắc “vào miền Nam thì sai
lắm” (392). Phát biểu của Lê Duẩn trước Trung ương vào ngày 13-8-1975 không
phải là một diễn văn được chuẩn bị sẵn. Những ý kiến rời rạc, trùng lắp
và mâu thuẫn liên tục trong bài nói chuyện “tay vo” này cho thấy Lê
Duẩn có băn khoăn giữa ý thức hệ và thực tiễn miền Nam. Trực giác nhận
thấy sự năng động của kinh tế tư nhân đã khiến Lê Duẩn có chút băn
khoăn. Nhưng theo ông Trần Việt Phương: “Lê Duẩn chỉ băn khoăn đúng một
tuần. Bản thân ông cũng không đủ sức thuyết phục chínhmình, nên khi bị
những thế lực bảo thủ cản trở thì ông nhượng bộ. Nhượng bộ không phải họ
đúng hơn ông, mà do mô hình của ông chưa hoàn thiện để có thể thay thế
cái đang tiến hành ở miền Bắc”. Không đợi đến khi Lê Đức Thọ nói, lẽ
ra ông Nguyễn Văn Linh phải nhớ, ngay trong ngày 13-8-1975, Lê Duẩn đã
khẳng định, thống nhất phải đi liền với chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả “nội
dung chính trị và nội dung kinh tế” (393).
Những cuộc đối thoại trên đây giữa Lê Đức Thọ, Trường Chinh, với các
thuộc cấp từ miền Nam diễn ra trong khoảng thời gian từ sau Hội nghị
Trung ương 24, tháng 8-1975, cho đến trước Hội nghị Hiệp thương Thống
nhất. Hội nghị Hiệp thương Thống nhất họp từ 15 đến 21-11-1975 tại Dinh
Độc Lập. Trưởng đoàn miền Bắc là Ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh;
trưởng đoàn miền Nam cũng là một ủy viên Bộ Chính trị khác, Bí thư Trung
ương Cục Phạm Hùng. Để giải quyết sự khác biệt về kinh tế của hai miền,
Trường Chinh đã dùng “phép biện chứng” Marx-Lenin phân tích: “Ý thức có
tính độc lập tương đối với thực tiễn, cho nên không nhất thiết phải chờ
thực tiễn phù hợp mới thống nhất mà có thể dùng ý thức để quyết định
rồi thực tiễn bắt đầu điều chỉnh”.
Đúng 12 giờ 10 phút ngày 21-11-1975, hội nghị “Hiệp thương Thống nhất
giữa hai miền Nam Bắc” kết thúc. Trong tiếng quân nhạc oai hùng, Chủ
tịch Mặt trậnDân tộc Giải phóng Miền Nam Nguyễn Hữu Thọ đã lặp lại lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một”. Hiệp thương giữa những
người đồng chí với nhau chỉ là hình thức. Kể từ ngày 30-4-1975, đất đai,
quyền lực đã ở trong tay Đảng Cộng sản Việt Nam. Thống nhất chỉ đồng
nghĩa với việc “Bắc hóa” mô hình kinh tế. Cuộc lánh nạn của những người
di cư, vì thế, chỉ có giá trị hai mươi năm. Những gì mà họ lo sợ và bỏ
chạy hồi năm 1954, sau ngày 30-4-1975 lại ở ngay trước mặt.
Chủ nghĩa xã hội
Nhiều người vẫn trích dẫn nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, “trong một
thời gian nhất định, ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế” (394), để
phê phán cácchiến dịch cải tạo tư sản. Trên thực tế, ngay sau khi các ủy
viên Trung ương từ Hội nghị Trung ương 24 trở về, Chiến dịch X-2395
được triển khai gần như ngay lập tức. Khi đưa cả hai miền “tiến lên chủ
nghĩa xã hội”, thay vì phải phân tích thực tiễn, các nhà hoạch định
chính sách đã tuân theo những nguyên lý của Marx-Lenin – đã thiết lập
“quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” thì việc “xóa bỏ giai cấp tư sản” là
không tránh khỏi (396).
Ngày 1-9-1975, tại Dinh Độc Lập, khi Thường Vụ Trung ương Cục làm việc
với Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến dịch X2”, các
thành viên chủ chốt như Nguyễn Văn Trân, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh
đều thống nhất coi “giai cấp tư sản là đối tượng của cách mạng”. Chủ trì
buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh thậm chí còn
đòi “thanh toán hết giai cấp tư sản” và tỏ ra chưa thỏa mãn với con số
“sáu mươi tên tư sản” bị đánh đợt đầu trong Chiến dịch X2. Ông Linh yêu
cầu nghiên cứu thêm để “nói đánh sáu mươi tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả
ngàn tên” (397).
Sau khi phân tích “hoàn cảnh lịch sử” của Hội nghị Trung ương 24, người
thư ký gắn bó nhiều năm nhất với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Đống Ngạc,
nói: “Mình ngồi ở đây, bây giờ, sau khi Liên Xô sụp đổ, mà bàn chuyện
cũ, khó lắm” (398). Một trợ lý lâu năm khác của Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc
Xuân (399), cho rằng: “Lúc đó, lợi ích giai cấp là mục tiêu quan trọng
nhất” (400).
Trước khi về làm trợ lý cho Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân là trưởng Khoa
Kinh tế học Marx-Lenin của trường Nguyễn Ái Quốc. Ông Xuân nhớ lại: “Cho
dù anh Ba đã rất trăn trở trước thực tế phát triển của miền Nam, nhưng
khi ấy phải sáng tạo ghê gớm lắm mới có thể thoát ra khỏi sự giáo điều
của cả phe cộng sản. Sáng tạo thì phải trên cơ sở có sự trưởng thành về
mặt lý luận, mà điều này thì ta chưa đủ. Những nhà lý luận của ta đều
học từ Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, trường đảng của
chúng ta cũng bắt đầu từ các thầy Trung Quốc”. Một trợ lý khác của ông Lê
Duẩn, Giáo sư Trần Phương (401), người mà ông Đống Ngạc gọi là “một nhà
kinh tế tự do” cũng phải thừa nhận: “Cho đến trước khi Liên Xô sụp đổ,
đầu óc của chúng tôi vẫn bị cầm tù trong sự giáo điều của chủ nghĩa
Marx” (402).
Rất nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn cho rằng bộ Tư Bản của Marx là giáo
khoa kinh tế học. Những người thực sự có được học về Marx một cách bài
bản ở Đại học Phương Đông như Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy
Tập, Lê Hồng Phong… thì đều đã bị người Pháp tử hình trước ngày “cướp
chính quyền” . Tác giả chính của các chính sách kinh tế áp dụng ở Việt
Nam hơn hai thập niên, ông Lê Duẩn, chỉ học hết lớp bốn rồi đi làm nhân
viên hỏa xa. Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ học Karl
Marx qua các bạn tù. Nhiều người phải sau khi nắm quyền mới học với sự
giúp đỡ của chính những người giúp việc (403). Nhưng cho dù có học thì,
theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Bộ Tư Bản mênh mông, gần như không lãnh đạo nào
đọc hết, nên nếu lấy ‘Tư Bản’ ra mà dọa thì một anh giúp việc có thể
điều khiển được một ủy viên Bộ Chính trị”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Mấy
anh giúp việc ông Trường Chinh (trong thập niên 1960) là rất hay trích
dẫn Marx-Lenin. Cái câu 'sản xuất nhỏ hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ
nghĩa tư bản' làm cụ Trường Chinh rất sợ” (404). Không chỉ bởi niềm tin
giáo điều, tuân thủ Marx còn là vấn đề kỷ luật.
Theo ông Đống Ngạc: “Những lần đi Liên Xô, anh Ba thấy cách quản lý
kinh tế của Liên Xô rất dễ làm mất đi sự sáng tạo của quần chúng. Nhưng
lúc đó Liên Xô thường nghe ngóng xem Việt Nam có đi chệch đường không”.
Tháng 11-1957, Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân Thế giới họp lần
thứ nhất và tiếp theo đó, tháng 11-1960, đã họp lần thứ hai. Tại đây,
“các đảng và các nước chủ nghĩa xã hội anh em” đã ký tuyên bố chung:
“Kinh nghiệm của Đảng Cộng Sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ
phong trào cộng sản quốc tế”. Tại Hội nghị tháng 11-1960, các đảng cộng
sản đã “nhất trí lên án hình thức Nam Tư”, gọi mô hình Nam Tư là “chủ
nghĩa cơ hội quốc tế”, là “lý luận của bọn theo chủ nghĩa xét lại hiện
đại”.
Ngày 29-5-1958, tức là chỉ sau hơn nửa năm ra Hà Nội, trong một cuộc
nói chuyện trước 1.000 cán bộ cao cấp, ông Lê Duẩn đã cực lực đả kích
chủ nghĩa xét lại Nam Tư (405). Thật khó để đánh giá cuộc nói chuyện được
đăng trên báo Nhân Dân này của ông Lê Duẩn là xuất phát từ nhận thức cá
nhân hay chỉ để gửi một thông điệp chính trị đến Liên Xô. Lê Duẩn lúc ấy
sắp trở thành tổng bí thư của một đảng vệ tinh, và Liên Xô thì rất cứng
rắn với những “anh em” không chịu tuân theo “kinh nghiệm” của họ.
Cán bộ tuyên huấn trong các quốc gia cộng sản, đặc biệt là Việt Nam, có
thể dựa trên niềm tin khi lặp đi, lặp lại rằng: “Một xã hội tổ chức
trên cơ sở của học thuyết Marx-Lenin mở ra những khả năng vô tận để phát
triển kinh tế và văn hoá, để đảm bảo cho mọi người một mức sống cao,
một đời sống hòa bình và hạnh phúc”. Nhưng những người nắm quyền thì biết
rõ sự kiện Liên Xô đưa xe tăng vào nghiến nát cuộc biểu tình ở thủ đô
Budapest vào tháng 11-1956 sau khi có những cải cách ở Hungary; biết rõ
sự kiện Liên Xô bắt nhà cải cách, Bí thư Thứ nhất Tiệp Khắc Alexander
Dubcek vào tháng 8-1968. Đêm 20-8-1968, khi cho xe tăng tiến vào thủ đô
Prague, Liên Xô đã giam hãm những mầm mống cải cách trong khối xã hội
chủ nghĩa suốt hai thập niên sau đó.
Cũng phải thừa nhận, cuối thập niên 1950, đầu 1960, Liên Xô đã tạo ra
nhiều thành tựu: tháng 6-1954, khánh thành nhà máy điện nguyên tử đầu
tiên trên thế giới; tháng 10-57, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào vũ
trụ; cũng trong năm 1957, thử nghiệm thành công tên lửa vượt đại châu,
dùng tên lửa phóng vệ tinh, chụp được ảnh phía sau mặt trăng. Những
thành tựu này được mô tả là đã làm cho “các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa nức lòng, các nước Phương Tây hốt hoảng”. Tháng 11-1960, Liên Xô
đưa người bay vào vũ trụ. Sự tuyên truyền về hệ thống xã hội chủ nghĩa
mạnh mẽ đến mức có lúc, ở Việt Nam, ông Việt Phương, trợ lý Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, đã phải làm thơ than: “Trăng Trung Hoa tròn hơn trăng
nước Mỹ / Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sỹ”.
“Con đường của Bác”
Ông Đống Ngạc cho rằng, sẽ là không công bằng nếu nghĩ tác giả các
chính sách cải tạo nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội là của Lê Duẩn. Theo
ông Đống Ngạc: “Chính Bác Hồ là người ký luật hợp tác xã và chính sách
cải tạo tư sản mà sau năm 1975 ta áp dụng”.
Khi “cướp được chính quyền”, trong Bản Tuyên ngôn Độc Lập đọc tại Ba
Đình vào ngày 2-9-1945, thay vì trích dẫn Marx hay Lenin, Hồ Chí Minh đã
mở đầu bằng những “lời bất hủ” mà ông nói rõ là lấy trong bản Tuyên
ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hoá cho họ nhữngquyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Phần trích dẫn thứ hai của Hồ Chí Minh trong bản tuyên ngôn
cũng từ cuộc cách mạng của giai cấp tư sản: Cách mạng Pháp năm 1791.
Cho dù từng sống ở Liên Xô trong thập niên 1930, thời kỳ huy hoàng nhất
của chế độ cộng sản, Hiến Pháp năm 1946 – bản hiến pháp được coi là của
Hồ Chí Minh – đã không hề có bóng dáng của nhà nước Xô Viết. Thật khó
để biết đâu là sách lược, đâu là quan điểm chính trị của ông. Sau những
nỗ lực tìm kiếm sự công nhận của phương Tây bất thành, năm 1948, cho dù
vẫn bị Stalin khước từ (406), Hồ Chí Minh chính thức xác nhận mình là một
người cộng sản (407). Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc vào
tháng 10-1949 mới là sự kiện ảnh hưởng mang tính bước ngoặt đối với
những lựa chọn sau đó của Hồ Chí Minh.
Cho dù bị các đảng viên của mình gọi là một người “quốc tế giả danh”,
chính Mao Trạch Đông đã đích thân bào chữa cho Hồ Chí Minh. Trong một
bức điện gửi Lưu Thiếu Kỳ ngày 27-1-1950, Mao Trạch Đông cho rằng: “Còn
quá sớm để coi việc Hồ Chí Minh ngụy trang đảng của ông ấy và tuyên bố
trung lập đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sai phạm mang tính nguyên
tắc, bởi cuộc đấu tranh của người Việt Nam không hề chịu hậu quả trước
hai quyết định đó”. Năm 1949, cũng chính Mao Trạch Đông giải thích với
Stalin: “Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa quốc tế. Việc ông ta
giải tán đảng là một quyết định tình thế để cứu cuộc đấu tranh chống
Pháp”. Chính Mao đã thuyết phục Stalin công nhận và thiết lập quan hệ về
đảng và nhà nước với Hồ Chí Minh, người trước đó đã bị ông ta ghẻ
lạnh (408). Quan hệ với Mao Trạch Đông và Stalin càng nồng ấm thì chuyên
chính vô sản càng nhanh chóng được áp dụng ở Việt Nam.
Ông Hoàng Tùng, chánh Văn phòng Trung ương, kể: Năm 1950, khi tới Điện
Kremlin, Hồ Chí Minh vẫn bị Stalin quy kết: “Không cải cách ruộng đất,
không dựa vào nông dân, lại đoàn kết với địa chủ. Dân tộc chủ nghĩa thế
này thì còn gì là đảng cộng sản nữa”. Stalin đã chỉ hai chiếc ghế như là
biểu tượng, một của quốc tế cộng sản; một là dân tộc chủ nghĩa, rồi hỏi
Hồ Chí Minh: “Đồng chí chọn ghế nào?”. Theo ông Hoàng Tùng thì khi ấy
Hồ Chí Minh đã “đứng”.
Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Đại hội II, năm 1951, thay
vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đưa ra
“thuyết ba giai đoạn” theo đó, trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới
đi đến cải cách ruộng đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Thuyết ba giai đoạn của
Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là có ý kiến của Bác, nhưng Trường
Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ ủy tôi đã được nghe ông nói
rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ
cộng lại thành cuộc cách mạng lớn”. Nhưng, sau đại hội, theo ôngHoàng
Tùng: “Mao và Stalin đã gọi Bác sang, nhất định bắt phải làm. Mao Trạch
Đông nói thẳng: nếu các đồng chí không cải cách ruộng đất, chúng tôi
không viện trợ nữa”. Để có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí
Minh đã chấp nhận “cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Phương Đông”, điều
mà ông đã từng cho là không thích hợp (409).
Thực ra, thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh cũng đã thể hiện bước
đi của một nhà nước công nông. Sau khi Chính phủ Đoàn kết Dân tộc tan
vỡ, nhất là thời kỳ Chính phủ phải rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các
chính sách mang màu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành (410). Từ sau
năm 1951, một số cán bộ, trong đó có Ủy viên Trung ương Hồ Viết Thắng,
được Đảng Lao Động Việt Nam đưa sang Trung Quốc học tập cách cải cách
ruộng đất rồi về nước phát động giảm tô, giảm tức. Năm 1952, việc đấu tố
địa chủ được bắt đầu với sáu xã thí điểm ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên
rồi sau đó chính thức thực hiện vào giữa năm 1953.
Tại Hội nghị Trung ương 5, họp từ ngày 14 đến 23-11-1953, Hồ Chí Minh
quán triệt: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất”. Mở đầu bài phát
biểu trước Hội nghị này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phe ta ngày càng mạnh,
phe địch ngày càng yếu. Liên Xô, thành trì cách mạng thế giới, đang tiến
mạnh từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa cộng sản… Với sự giúp đỡ tận
tâm của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đang ra sức xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc đã thắng lợi to trong cuộc chống Mỹ,
giúp Triều, trong việc xây dựng nǎm đầu của kế hoạch năm nǎm, và đang
thắng lợi trong công cuộc củng cố và phát triển dân chủ mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tiếp: “Đó là tóm tắt tình hình của phe ta.
Tình hình phe đế quốc do Mỹ cầm đầu thì thế nào? Mỹ và mười sáu nước phe
Mỹ (trong đó gồm có Anh và Pháp) đã thất bại nhục nhã ở Triều Tiên. Từ
cuối thế kỷ XIX đến ngày nay, Mỹ đã nhiều lần nhờ chiến tranh mà làm
giàu và chiếm được địa vị anh chị. Lần này là lần đầu tiên (nhưng chưa
phải là lần cuối cùng) mà Mỹ thất bại to, đã hao người (hơn 397.500 binh
sĩ Mỹ chết và bị thương), tốn của (hơn hai mươi ngàn triệu đôla), lại
mất mặt với các nước. Thế của Mỹ ngày càng yếu ở Hội Liên hiệp quốc, phe
Mỹ càng thêm lủng củng chia rẽ, kinh tế Mỹ ngày khủng hoảng thêm… Nói
tóm lại: phe Mỹ là ba phe bảy mảng, thế ngày càng suy”. Tuy nhắc nhở các
ủy viên Trung ương, “chúng ta không được chủ quan khinh địch”, nhưng
ngay sau đó, Hồ Chí Minh đã nói: “Những hoạt động của địch không phải vì
chúng mạnh, mà vì chúng yếu thế… Để phá tan âm mưu của địch, chúng ta
phải ra sức đẩy mạnh kháng chiến. Để đẩy mạnh kháng chiến, chúng ta phải
thực hiện cải cách ruộng đất”.
Chính Hồ Chí Minh đã tự phê phán: “Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ
để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề
ruộng đất”. Theo Hồ Chí Minh: “Nông dân ta chiếm 95% dân số, mà chỉ được
có 3/10 ruộng đất, quanh nǎm khó nhọc mà suốt đời nghèo nàn. Giai cấp
địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn
bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược,
dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó” (411). Cũng trong trung tuần tháng
11-1953, một “hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng” được nhóm họp để
“tán thành chính sách cải cách ruộng đất do Trung ương đề ra”. Từ ngày 1
đến 4-12-1953, Quốc hội họp kỳ thứ III thông qua Luật Cải cách Ruộng
Đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng
đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng
đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
Về phía Việt Nam, Ủy ban Cải cách Ruộng đất cũng được thành lập ở hai
cấp trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương có chủ tịch Ủy Ban, Tổng
Bí thư Trường Chinh, phụ tá – hai ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt,
Lê Văn Lương, và một ủy viên Trung ương, Hồ Viết Thắng, người vừa đi
Trung Quốc học về cải cách ruộng đất. Tại địa phương, mỗi tỉnh lập ra
mười đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ. Đoàn trưởng nhận lệnh trực
tiếp từ Ủy Ban Cải cách, không qua hệ thống đảng và chính quyền địa
phương. Mỗi đoàn lại chia ra thành nhiều đội. Đội trưởng được chọn trong
số bần nông hay bần cố nông. Đội có quyền hành tuyệt đối, chỉ nhận lệnh
từ Ban Cải cách.
Trước khi những cuộc đấu tố địa chủ diễn ra, các cán bộ cải cách được
đưa về làng, thực hiện chính sách “tam cùng”: cùng làm việc, cùng ăn,
cùng ngủ. Vào làng, cán bộ thấy ai là thành phần nghèo khổ thì “tam
cùng” để làm thân, rồi tiếp đó “thăm nghèo hỏi khổ”. Ngoài việc thu thập
thông tin để “xếp loại kẻ thù”, đội còn khơi gợi người nông dân thổ lộ
nỗi khổ, khơi gợi lòng căm thù và tìm kiếm những người có thể bồi dưỡng
để tham gia đấu tố. Những phụ nữ đã từng có quan hệ với những người giàu
trong làng sẽ được đội động viên, thúc ép, hoặc đe dọa để họ đứng ra tố
là đã từng bị “cường hào cưỡng hiếp”. Vợ, con cái địa chủ cũng bị lôi
kéo để đấu tố cha, chồng. Cải cách ruộng đất không chỉ mang lại những
tổn thất về mặt con người mà còn phá vỡ những nền tảng đạo đức làng xã,
gia đình, những tôn ti, trật tự giữa cha mẹ, vợ chồng,… những giá trị mà
người Việt phải mất hàng nghìn năm kiến tạo.
Kể từ cuối 1952 đến năm 1956, trên địa bàn của 3.314 xã miền Bắc Việt
Nam diễn ra tám đợt “phát động quần chúng” giảm tô và năm đợt cải cách
ruộng đất, tịch thu hơn bảy mươi vạn hecta, bằng 44,6% ruộng đất trong
vùng. Số người bị quy oan lên tới 123.266 người, chủ yếu vì các biện
pháp truy bức để “đôn” tỷ lệ địa chủ lên trên 5% dân số như một định mức
bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm, khi chưa có tòa án
xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên
thì “phóng tay phát động”; ở dưới, những “đoàn”, những “đội” cải cách
thì tha hồ lộng quyền, “nhất đội nhì giời”. Một quốc gia nghèo đói như
Việt Nam lúc ấy mà các đội đã đưa được “định mức địa chủ” lên tới 5,68%
dân số các địa phương tham gia.
Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: “Mình nói
để cho mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách theo cách của Việt Nam
nhưng mà cứ ép cho bằng được”. Biết bao trí thức, địa chủ đã theo Việt
Minh, đã đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây, bị “hai ông
anh lớn” ép phải chấn chỉnh lại, không để địa chủ, người có gốc “Tây”
đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 1950, những “địa chủ không kháng
chiến” thì đã “dinh tê”. Cải cách, đấu tố, theo ông Hoàng Tùng: “Coi như
là đánh vào lực lượng của mình”.
Ông Hoàng Tùng kể: “Khi ấy tôi thường dự họp Bộ Chính trị nên cũng biết
một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách chọn bắn bà Nguyễn Thị
Năm”. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có hai
con là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ bậc trung đoàn trưởng làm
việc ở Cục Chính trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953 bà Năm tham
gia công tác ở Hội Phụ nữ. Trong “tuần lễ vàng”, gia đình bà hiến 100
lượng vàng. Theo ông Hoàng Tùng: “Các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi
như con. Họp Bộ Chính trị, Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải
xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào
người đàn bà mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng’. Sau, Cố vấn Trung Quốc
La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là
không phải”.
Ông Hoàng Tùng nói: “Hồ Chí Minh bị nó coi là hữu khuynh. Khi ấy mà
kháng cự thì nó cắt viện trợ”. Để có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng: “Mỗi
ngày, đội cải cách thường phải tìm cho ra một người để bắn thị uy, nói
là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh
ấy chỉ có 7,5 mẫu ruộng”. Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính trị
đều biết các đội đã dùng nhục hình để quy sai địa chủ nhưng việc chấn
chính chỉ dừng lại ở những lời răn dạy (412).
Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các “đồng chí Trung
Quốc” là “nó”, tiếp: “Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa,
đền đài đều bị nó phá sạch. Đền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi
để phân bón. Ông Trường Chinh thì có mặc cảm, vì nhà cũng có bảy mẫu
ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cày rẽ lấy tô,
rất dễ bị ‘quy’. Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết
Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành
dụm mua được hai mươi mẫu ruộng, cũng bị ‘đội’ đem ra đấu. Khi ông
Hương nghe, chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi,
ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha,
vợ đấu chồng. Cách mạng cũng phải có đạo đức chứ. Bố ông Nguyễn Khắc
Viện là Nguyễn Khắc Niêm, từng đỗ đầu tiến sỹ làng Giáp, Tây đưa lên
hàng thượng thư. Kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có thư vận động ông Niêm. Khi cải cách, bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết”.
Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “chỉnh đốn tổ chức Đảng và
chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung
ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng (413). Ông Hoàng Tùng nuối
tiếc: “Mình không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Việc đầu tiên
là họ sửa quân đội, lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người bao trùm lên
tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Giáp, một vị tướng xuất thân từ trí thức và mới chỉ tham gia đảng cộng sản từ
năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải là công
nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi ngờ là Lý Ban, phó
của Văn Tiến Dũng, đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ
xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp
đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân
đội không còn cán bộ”.
Có tới 71,66% phú nông bị quy sai là địa chủ. Theo ông Hoàng Tùng, Pháp
và Mỹ chỉ phải chịu trách nhiệm một phần, chính cải cách ruộng đất,
đánh thuế công thương nghiệp và cải tạo tư sản, là nguyên nhân chính
khiến cho hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam (414).
“Mỗi người làm việc bằng hai”
Nếu mô hình Stalin và Mao Trạch Đông được giới hạn ở những gì áp dụng
trước năm 1956 thì miền Bắc vẫn còn cơ hội khôi phục. Chính sách cải
cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cũng đã đưa số ruộng đất “tước đoạt của
giai cấp địa chủ” chia cho 72,8% số hộ nông dân Miền Bắc, chủ yếu là dân
nghèo. Trước năm 1960, những người nông dân nhận đất này chưa phải vào
hợp tác xã. Nhờ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của mình, họ đã
khiến cho nền nông nghiệp miền Bắc có một giai đoạn phát triển khá tốt
đẹp. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng đạt mức tăng trưởng nhanh cả ở
nông thôn và thành thị. Có lúc, lực lượng thợ thủ công miền Bắc đã lên
tới hơn nửa triệu người. Đến cuối năm 1957, miền Bắc vẫn còn 78.456 cơ
sở buôn bán. Cải cách ruộng đất đã không chỉ được nhớ đến như một sai
lầm nếu những người nông dân được chia ruộng tiếp tục được làm chủ đất
đai của họ.
Hội nghị quốc tế “các đảng anh em” lần I mà Hồ Chí Minh tham gia, họp
tại Moscow tháng 11-1957, đã khẳng định nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã
hội: “Thiết lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức
khác, thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ sở hữu
công cộng, cải tạo nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh
tế có kế hoạch, thực hiện cách mạng tư tưởng văn hoá”.
Ngay sau khi từ Moscow trở về, ngày 1-1-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công
bố trước quốc dân: “Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu
thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch”. Trung tuần tháng
11-1958, Trung ương họp hội nghị lần thứ 14, quyết định: “Cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn
bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh…”. Ngay trong mùa thu năm 1958, đợt
thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp đã được tiến hành. Đến cuối
năm 1960, 86% số hộ nông dân miền Bắc bị đưa vào 41.401 hợp tác xã.
Cuối năm 1960, 97% hộ tư sản bị buộc phải “công tư hợp doanh”.
Cho dù “giai cấp tư sản miền Bắc đã phản ứng, đôi khi khá gay gắt”,
tháng 4- 1959, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 tuyên bố: “Nếu
trong hàng ngũ tư sản có người quyết chống lại sự cải tạo…, trong trường
hợp ấy, đó là mâu thuẫn giữa ta và địch. Những phần tử tư sản kiên
quyết chống lại cải tạo xã hội chủ nghĩa là những phần tử tư sản phản
động”.
Càng “tuân thủ mô hình Liên Xô”, tình hình kinh tế miền Bắc càng trở
nên bi đát. Ngay từ những năm đầu 1960, từ công nghiệp, thương nghiệp,
cho đến tài chính đều bị đình đốn, đời sống cả nhân dân và cán bộ đều
thiếu thốn khó khăn. Ở nông thôn, 80% thu nhập của các xã viên hợp tác
xã có được nhờ vào đất “năm phần trăm”, còn 95% diện tích ruộng đất đưa
vào hợp tác xã chỉ để “làm qua loa, tính công, chia điểm…”. Cuộc sống ở
nông thôn trở nên u ám.
Ông Vũ Quốc Tuấn (415) kể: “Năm 1965, tôi đạp xe về làng, thấy tám giờ
sáng nông dân mới ra đồng. Tôi nói: Làm thế này thì đói. Bà con bảo: Thì
có cái gì ăn đâu mà không đói hở bác”. Điều đáng nói, theo ông Tuấn,
những người nông dân này đều vốn rất chí cốt với nghề nông, khi còn
ruộng cá thể, họ thức dậy từ ba bốn giờ sáng ra đồng. Vào hợp tác xã thì
mãi tới khi mặt trời treo ngọn tre, nông dân mới bắt đầu uể oải cầm
liềm, vác cuốc. Ngay từ khi đó, nông dân miền Bắc đã nói: “Mỗi người làm
việc bằng hai / Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”.
Khi còn là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, chính sách ruộng đất mà Lê Duẩn áp dụng
ở miền Nam khá mềm dẻo. Nhưng khi trở thành Bí thư Thứ nhất, nhất là
sau khi đi dự Hội nghị quốc tế lần thứ II (416), Lê Duẩn bắt đầu coi việc
tuân thủ những “kinh nghiệm của Liên Xô” là “vũ khí sắc bén”. Sau Hồ Chí
Minh, “Lê Duẩn là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô
hình kinh tế miền Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975, và sau đó ông cũng là
nhà thiết kế chính của mô hình kinh tế cả nước từ 1975 cho tới giữa năm
1986” (417).
Lê Duẩn và mối tình miền Nam
Ông Lê Duẩn được những người giúp việc mô tả là “một người có cái đầu
chỉ thích suy nghĩ”. Chưa bao giờ ông thoả mãn với những mô hình kinh tế
áp dụng ở miền Bắc lúc bấy giờ. Ông thường xuyên đối thoại với những
nhà lý luận hàng đầu (418) nhưng chưa có một ý tưởng nào tồn tại đủ lâu để
có thể hình thành trong ông và trong nhóm chuyên gia một con đường rõ
rệt.
Ông Đống Ngạc kể: “Một lần đi Hungary, thấy nông dân được canh tác tới
năm mươi hecta ruộng, anh Ba rất thích nhưng khi trao đổi với một số nhà
kinh tế, họ nói: ‘Làm như thế lâu [lên chủ nghĩa xã hội] lắm anh ạ’,
anh Ba lại thôi”. Theo ông Trần Phương thì nhiều lần, ông Lê Duẩn bàn
với ông nghiên cứu áp dụng mô hình Bắc Triều Tiên nhưng khi ông Trần
Phương nói rằng miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện làm như vậy thì “anh
Ba im lặng”. Đầu thập niên 1970, khi nhìn thấy những bất hợp lý của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo ông Nguyễn Đức Bình, ủy viên Bộ Chính
trị khóa VII, ông Lê Duẩn đã tỏ ra thận trọng khi đưa ra khái niệm “bước
đi ban đầu”. Ông Bình nói: “Khái niệm này đã làm nức lòng giới lý luận
đầu những năm bảy mươi”. Tuy nhiên, cũng theo ông Bình: “Rất tiếc, khái
niệm đó đã bị chìm đi tại Đại hội IV, 1976, trong không khí say sưa vì
thắng lợi”. Bài phát biểu trước Hội nghị Trung ương 24, ngày 13-8-1975,
cho thấy mâu thuẫn khá rõ giữa một Lê Duẩn sắc sảo nhìn thấy vấn đề
trong cuộc sống và một Lê Duẩn chưa có đủ lý luận để giải thích kinh tế
thị trường. Trình độ của một nhà lãnh đạo có thể được khắc phục nếu như
quy trình hình thành chính sách của Đảng cho phép tranh luận thay vì chỉ
trông cậy vào sự anh minh lãnh tụ.
Ông Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong, Quảng Trị, trong một gia
đình thợ nghèo. Bà Lê Thị Muội, con gái của ông với người vợ đầu ở quê
tên là Lê Thị Sương, kể: “Là con trai một, ba tôi rất được cưng chiều,
ông nội bắt tránh sông nước nên sống ở nông thôn mà không hề biết bơi”.
Tuy nghèo, nhưng “cậu Nhuận”, tên ông hồi nhỏ, vẫn được gia đình cố lo
cho ăn học, nhưng ông học đến lớp bốn thì “tự ý bỏ”. Theo ông Lê Kiên
Thành, con trai của ông với bà Nguyễn Thụy Nga: “Ba tôi kể, trong một
lần làm bài thi, thầy giáo ra đề ‘hãy kể những gì mà nước Pháp đã mang
lại cho An Nam’. Ba tôi viết ‘nước Pháp chỉ mang lại sự áp bức’. Bài thi
của ông bị đánh rớt, từ đó ông bỏ học”. Học hành dở dang, nhưng lớp bốn
ở quê thời đó vẫn được coi là “hay chữ”, dân làng vẫn gọi ông là “cậu
Thông Nhuận”. Ở nhà ít lâu, ông Lê Duẩn kiếm được một chân thư ký cho
Công ty Hỏa xa Bắc Kỳ.
Tham gia hoạt động từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, ông Lê Duẩn trở
thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, ông bị bắt tại Hải Phòng khi đang là ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc
Kỳ, bị xử án hai mươi năm cầm cố, bị đưa qua các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò,
Côn Đảo. Năm 1936, nhờ thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền
Đông Dương trả tự do cho nhiều tù chính trị trong đó có Lê Duẩn. Năm
1937, ông được cử giữ chức bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và chỉ hai năm sau
được bầu làm ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng.
Cũng trong năm 1940, Lê Duẩn bị bắt, bị đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng
Tháng Tám, ông được đón về cùng với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng và
Nguyễn Văn Linh. Tại Đại hội II, Lê Duẩn không dự nhưng vẫn được bầu làm
ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Đây là thời
gian mà Lê Duẩn kiến tạo được uy tín rất cao ở trong Xứ ủy. Theo ông Võ
Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm
Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý
mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm
việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”.
Cũng như cách mà Hồ Chí Minh thi hành trong các chính phủ ban đầu, ở
Nam Bộ lúc ấy, các vị trí chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Nam Bộ, ông Lê Duẩn đều giao cho người ngoài Đảng. Ngay một sở quan trọng như
Sở Công an, ông Duẩn cũng để Luật sư Diệp Ba – một người không phải đảng
viên – làm giám đốc, còn xứ ủy viên như ông Phạm Hùng thì làm phó. Vị
trí Tổng chỉ huy Lực lượng Vũ trang Nam Bộ ông Duẩn cũng giao cho Trung
tướng Nguyễn Bình, nguyên là người của Quốc dân Đảng.
Hình ảnh ông Lê Duẩn trong những ngày lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông mô tả: “Anh mặc quần
rách đít, áo rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng
vì cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng
Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động. Những người như ông Phạm
Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành
chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp,
tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc
thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo
vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt
cho mọi người” (419).
Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết
báo và mở lò gạch tại Biên Hòa. Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ
bút tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indigène. Năm mười hai tuổi, cô tiểu
thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn
tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu
một đồng chí đã có gia đình”. Người tình “đồng chí” của bà Nga chính là
“hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lãnh
đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà “cả hai
người vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối
quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga
bị buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác.
Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp
Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện tình của bà Nga, bấy giờ đang là
nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao
nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy. Khi được
ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên
Sài Gòn, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng
tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng
được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc”. Theo bà Nga thì khi
ấy ông Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ,
ông nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị
Nga” (420). Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga:
“Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi
năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ
anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một
nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm
sóc thì anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có
lợi cho cách mạng” (421).
Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì
trong lòng tôi lúc nào anh cũng là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu.
Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê
Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh:
‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải giải quyết sao
đây?’. Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi
cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy
hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên
tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được gì cho gia đình
và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong
kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ
chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung
cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với
cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động
cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn” (422).
Năm ấy, ông Lê Duẩn bốn mươi mốt còn tuổi thực của bà Nga là hai mươi
ba, có lẽ khi lấy nhau, họ cũng không ngờ ông Lê Duẩn rồi sẽ trở thành
một nhà lãnh đạo quyền lực nhất, và cuộc hôn nhân rồi sẽ mang lại cho bà
Nga nhiều rắc rối nhất. Bà Nguyễn Thụy Nga thừa nhận trong cuộc hôn
nhân hơn ba thập niên của bà, chỉ có ba năm là thực sự hạnh phúc. Ông Lê
Duẩn đã chọn vợ vì “đức thủy chung mà ông chứng kiến bà Nga dành cho
người khác” và bà thì thừa nhận là đã chọn ông qua “đạo đức và tình cảm
lớn lao mà ông đã dành cho đồng chí, đồng bào”. Đám cưới ông bà do Văn
phòng Xứ ủy đứng ra tổ chức: ông Lê Đức Thọ làm “ông mai”, ông Phạm Hùng
làm chủ hôn. Ông Lê Duẩn đã đọc thơ ca ngợi vợ trong một bữa liên hoan
đơn giản được những người kháng chiến đứng ra tổ chức.
Bà Nga kể: “Trong tình yêu anh cũng như con nít, đi đâu anh cũng mang
tôi theo. Họp hành xong, trở về nhìn thấy nhau là anh ôm chầm lấy tôi”.
Họ vẫn thường di chuyển và ngủ trên một chiếc ghe tam bản có mui. Khi bà
Nga mang thai người con đầu lòng tới tháng thứ bảy thì ông Lê Duẩn trở
lại miền Đông. Bà Nga trở lại Sài Gòn sinh người con gái đặt tên là Lê
Vũ Anh rồi gửi lại nhờ mẹ đẻ nuôi khi con mới ba tháng tuổi. Năm 1952,
ông Lê Duẩn ra Bắc, kể từ đó, họ bắt đầu có rất ít thời gian ở bên nhau.
Đầu 1954, ông Lê Duẩn từ Việt Bắc về miền Nam. Thư ký riêng của ông,
ông Đống Ngạc, kể: Tới Quảng Ngãi, theo lệnh của Bộ Chính Trị, ông ở lại
mở lớp cho cán bộ cao cấp miền Trung Nam Bộ, một số cán bộ từ Nam Bộ
cũng kéo ra Khu V tham gia lớp học này. Khi Hiệp định Geneva có hiệu
lực, Bộ Chính trị chỉ thị ông trở lại Nam Bộ, đôn đốc việc thi hành, chủ
yếu là lo tổ chức tập kết rồi ra Bắc. Nhưng ông Lê Duẩn đã điện ra xin
“ở lại Miền Nam”. Khi những người giúp việc của ông thắc mắc, theo ông
Đống Ngạc: “Anh Ba nói, anh biết rằng sẽ không có hiệp thương và rồi
tình hình miền Nam sẽ rất gay go, anh phải ở lại để tính làm sao chuyển
sang đấu tranh chính trị và bảo toàn lực lượng. Anh Ba cho rằng phải làm
lại cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam”.
Từ Quảng Ngãi, ông Lê Duẩn theo đường bộ vào Quy Nhơn rồi từ đó đáp máy
bay của quân đội Pháp xuống miền Tây để triển khai việc thi hành hiệp
định. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tuy là một người rất hùng biện trước các
vấn đề gai góc, ông Duẩn đã phải ấp úng khi giải thích Hiệp định
Geneva, bởi bản thân hiệp định đã không thuyết phục được ông”. Đó là
những ngày mà theo bà Nguyễn Thụy Nga, ông Lê Duẩn rất băn khoăn, day
dứt. Bà Nga kể: “Anh đi tới, đi lui, chắp hai tay phía sau, đốt thuốc
hết điếu này đến điếu khác. Theo quyết định của Trung ương, sau khi sắp
xếp tình hình xong, anh sẽ tập kết. Nhưng anh liên tục điện ra Trung
ương, và tới lần thứ ba thì Trung ương và Bác Hồ đồng ý cho anh ở
lại” (423).
Khi ấy, bà Thụy Nga đang mang thai người con thứ hai. Bà Nga xin ở lại,
nhưng theo bà thì ông Lê Duẩn nói: “Tình hình miền Nam rồi sẽ phức tạp
lắm, em ở lại không những sẽ khổ em, khổ con mà còn dễ bị lộ cho hoạt
động của anh”. Cuối tháng 3-1955, bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái được
thu xếp tập kết trên chuyến tàu áp chót. Con tàu Ba Lan mang tên
Kilinski, khi ấy đợi trên cửa Sông Đốc, Cà Mau, để chở hơn 2000 cán bộ
miền Nam ra Bắc. Gia đình Lê Duẩn và Lê Đức Thọ được các “đồng chí Ba
Lan” dành riêng cho hai cabin. Trước mặt báo chí và Ủy ban Giám sát, ông
Lê Duẩn cùng vợ con đĩnh đạc bước lên tàu.
Khoảng mười hai giờ đêm, Kilinski nhổ neo. Ít giờ sau, một chiếc ca-nô
âm thầm cập sát thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con. Bà Thụy Nga
kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế
nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải
ở lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”. Khi Lê Duẩn lên
boong, một số rất ít các đồng chí thân cận của ông biết kế hoạch đứng
chờ. Ông Duẩn cũng ôm hôn từ giã từng người, trong đó có Lê Đức Thọ. Rồi
ông lặng lẽ leo theo mạn tàu xuống chiếc ca-nô do ông Cao Đăng Chiếm và
ông Văn Viên, người của Quốc Gia Tự vệ Cuộc, lái chạy ngược vào bờ, nơi
ông Võ Văn Kiệt đang chống xuồng đợi rồi đưa Lê Duẩn về một căn cứ ở
Bạc Liêu.
Ông Duẩn rất thích “căn cứ” mà ông Kiệt bố trí. Đó là một cái trại nằm
giữa đồng, xung quanh mênh mông sông nước. Đêm ấy, bà chủ trại thấy ông
Kiệt dẫn khách về đã ngờ ngợ. Sáng, khi ông Kiệt ra phụ nhổ lông vịt làm
cơm, bà hỏi: “Có phải ông Lê Duẩn?”. Ông Kiệt giựt mình nhưng phản ứng
mau lẹ: “Đâu có, ổng đi hồi hôm rồi”. Bà dứt khoát: “Ông Duẩn! Cậu không
tin, tôi lấy hình cho coi”. Nói rồi bà lên trang thờ lấy hình ông Duẩn
xuống. Ông Kiệt thấy khó giấu, bèn dặn: “Thì ông này giống ông Duẩn
nhưng chị không được nói với bất cứ ai nhé”.
Sáng hôm ấy ông Kiệt cứ phân vân, đến cuối buổi, ông rủ ông Duẩn ra
vườn rồi nói thật: “Bà già phát hiện ra anh”. Ông Duẩn hỏi: “Ai nói?”.
“Bà giữ hình anh trên trang thờ nên nhận ra”. Ông Duẩn lắc đầu: “Lại
thằng Trần Bạch Đằng!”. Khi phụ trách thông tin Xứ ủy, ông Trần Bạch
Đằng đã cho in hình ông Lê Duẩn treo khắp các cơ quan của Ủy ban Kháng
chiến.
Ông Kiệt trấn an: “Nhưng bà già có ý thức lắm”. Ông Duẩn suy nghĩ rất
căng rồi nói: “Nhưng chỉ cần bả mừng, bả khoe với con bả là đủ lộ rồi”.
Ông lệnh: “Chuẩn bị, tối chuyển”. Tối hôm đó, ông Kiệt đưa ông Lê Duẩn
qua ở với ông Cao Đăng Chiếm và ông Mai Chí Thọ. Ở đây, ông Duẩn rất kỹ,
cứ có khách là ông lại vô buồng. Trong khi Cao Đăng Chiếm và Mai Chí
Thọ, đều là dân công an, lại cứ thản nhiên ngồi đánh bài ngay cả khi có
người lạ tới. Chỉ một thời gian ngắn sau ông Lê Duẩn lo lắng quá lại
phải quay về ở chung với ông Kiệt.
Đó là những ngày cực kỳ căng thẳng. Ở trong đất liền một thời gian,
thấy cần phải hạn chế xuất hiện, Lê Duẩn chuyển ra Hòn Khoai, đóng giả
ông thầy thuốc Nam chữa bệnh bằng lá cây. Xung quanh ông lúc đó có Võ
Văn Kiệt, Phạm Văn Xô, có thuyền, ghe, có mấy chiếc xe ngựa, đảm bảo
giao thông từ phía U Minh Hạ. Ông Phạm Văn Xô, một ủy viên Trung ương,
được người dân quen gọi là “ông Hai xe ngựa”.
Cuối năm 1955, ông Lê Duẩn nhận được mật báo: “Địch đã biết Lê Duẩn ở
lại miền Nam và đang lần theo mọi dấu vết để truy tìm”. Ông chuyển lên
Bến Tre.
Theo Năm Hoành, một người cận vệ của ông lúc đó: “Bốn tháng đầu, tình
hình tương đối yên tĩnh. Sang đầu tháng 5-1956, địch bắt đầu đánh phá
mạnh các cơ sở của ta, anh Ba cử tôi về Bạc Liêu liên hệ với Liên Tỉnh
ủy Hậu Giang, chuẩn bị địa điểm để khi cần thì sẽ đưa anh Ba quay lại
Khu IX”. Người tiếp Năm Hoành khi ấy là ông Võ Văn Kiệt. Thu xếp xong,
Năm Hoành trở lại Bến Tre, gặp khi chính quyền Ngô Đình Diệm đang bố ráp
ở huyện Giồng Trôm, ông bị bắt khi còn cách nơi ở của ông Lê Duẩn chỉ
vài trăm mét.
“Cách mạng miền Nam” có thể đã khác nếu như chính quyền Sài Gòn quật
ngã được khí tiết của Năm Hoành. Nhưng, dù bị tra tấn, Năm Hoành đã
không khai gì về Lê Duẩn (424). Sau khi Năm Hoành bị bắt, thay vì trở lại
Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt đã chuẩn bị đón, Lê Duẩn quyết định trở lại
Sài Gòn. Ngày 14-7-1956, ông được Sáu Hoa, một cơ sở của ông Nguyễn Văn
Linh, đón lên Sài Gòn bằng xe hơi. Lê Duẩn về tá túc ở nhà ông Sáu Hoa
một thời gian rồi chuyển lên nhà 29 Huỳnh Khương Ninh.
Tại ngôi nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, Xứ ủy viên Lê Toàn Thư trước đó đã
đưa các cán bộ của mình về, tạo ra một “gia đình bình phong”. Bà Nguyễn
Thị Loan, khi ấy là một phụ nữ trẻ, được Xứ ủy yêu cầu mang theo hai đứa
con còn nhỏ về đóng vai vợ một sỹ quan có chồng chinh chiến xa. Anh
Trịnh Long Nhi, một nhà giáo, đóng vai “anh Hai” của Loan. Chị Danh, một
công chức thuế quan làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất, đóng vai vợ Nhi.
Người lớn nhất trong nhà là “bà dì” Nguyễn Thị Một và ông Phan Phát
Phước, vào vai “anh bếp”. Từ cuối tháng 7-1956, ngôi nhà này có thêm
“chú Chín”.
Theo bà Nguyễn Thị Loan, trong cái đêm “chú Chín” Lê Duẩn được ông Lê
Toàn Thư dẫn đến nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, ông nom như một ông già bảy
mươi với dáng gầy gò, râu dài chấm ngực, dù năm ấy ông chỉ mới chưa đầy
năm mươi tuổi. Tại đây, sau khi được cắt tóc, cạo râu và thay quần áo
cho giống một ông già Sài Gòn, ông Lê Duẩn bắt đầu viết Dự thảo Đề cương
Cách mạng Miền Nam.
Bản Đề cương nổi tiếng này, theo bà Loan: “Chú Chín” viết tới đâu lại
đem xuống hầm cất giấu, tới đêm mới mang lên để bà Loan và ông Phước
chép lại giữa hai dòng của một cuốn tiểu thuyết, bằng một thứ mực hóa
học do ông Phước tự chế từ những trái cây mà bà Loan gọi là trái “ngũ
bội”. Ông Lê Duẩn ở lại miền Nam cho tới đầu năm 1957, cho dù, theo bà
Hồ Anh – người được Trung ương Đảng cử tìm cách liên lạc với ông – từ
năm 1956 “Bác Hồ” đã quyết định gọi ông Lê Duẩn ra Hà Nội.
Ngày 3-9-1956, bà Hồ Anh đi Quảng Châu, Trung Quốc, định tìm đường từ
Hong Kong tới Sài Gòn để đón ông Lê Duẩn, nhưng các “bạn Trung Quốc” cho
là phương án này không thể thực hiện. Bà Hồ Anh liền liên lạc với một
đảng viên cộng sản Trung Quốc, được gọi theo bí danh là Q.M., khi ấy
đang ở Phnom Penh, và “đường Phnom Penh” đã được Trung ương đồng ý. Từ
Hà Nội, Phạm Hùng viết cho Lê Duẩn một lá thư đã được mã hóa để bà Hồ
Anh cầm theo làm tin. Ông Q.M. nhận được lá thư, chuyển về Sài Gòn trao
tận tay ông Lê Duẩn. Bà Loan dẫn “chú Chín” ra tiệm ảnh, chụp hình làm
giấy thông hành còn “anh Hai” Trịnh Long Nhi thì dẫn ông đi cắt may một
bộ đồ complet sang trọng.
Theo lệnh của ông Phan Văn Đáng (425), ông Lai Thanh, một cơ sở người Hoa
của Xứ ủy, lo liệu giấy tờ và trực tiếp lái xe đưa ông Lê Duẩn thoát
sang Phnom Penh.
Chiếc xe Ford bốn chỗ, sơn màu đọt chuối của một cơ sở khác, tên là
Nguyễn Văn Ninh, được trưng dụng cho “cuộc đào thoát lịch sử”. Ngoài ông
Lai Thanh lái xe, ông Ninh chủ xe, tùy tùng thứ ba là một bảo vệ do ông
Lê Duẩn trực tiếp lựa chọn: ông Bảy Dự Nguyễn Võ Danh (426), vốn là một
cán bộ binh vận mà ông Lê Duẩn biết rõ khi còn ở Đồng Tháp.
Khi ấy, lệnh truy đuổi Lê Duẩn đã được chính quyền Ngô Đình Diệm ban
xuống gắt gao. Ở trạm kiểm soát Gò Dầu, Tây Ninh, Bảy Dự phán đoán có ít
nhất năm loại tình báo đang rình rập. Ông Ninh cầm xấp giấy tờ chạy
xuống trình, thấy trong bót gác có lệnh truy nã Lê Duẩn dán hình ông hồi
kháng chiến. Nhưng mật vụ kiếng đen thò đầu nhìn vào trong xe không tìm
ra được mối liên hệ nào giữa một ông “bận đồ lớn”, mặt mũi phương phi,
đeo kính trắng với ông Duẩn gày gò trên tờ truy nã. Cùng với khoản lót
tay hậu hĩ, Lê Duẩn thoát sang Svay Rieng không mấy khó khăn. Tại đây,
ông dừng lại để làm giấy tờ giả dưới danh nghĩa Việt kiều.
Tại Phnom Penh, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy Nam Bộ lên họp bàn về tình
hình “cách mạng miền Nam” trước khi ông lên một tàu buôn Anh chạy tuyến
Phnom Penh – Hong Kong, theo sông Tiền, trở lại miền Nam Việt Nam, lênh
đênh bốn ngày, năm đêm trên biển. Trong những ngày ấy, Lê Duẩn phải đóng
vai “ông già câm” để khỏi phải giao tiếp với những người trên tàu. Đi
cùng ông là Q.M. Trong vai một “đứa cháu” người Hoa, Q.M. sẽ đưa ông Lê
Duẩn về Quảng Châu, nơi đó họ gặp lại nữ đồng chí Hồ Anh cũng vừa bay từ
Phnom Penh đến. Ngày 4-6-1957, máy bay chở Lê Duẩn từ Trung Quốc trở về
đáp xuống sân bay Gia Lâm.
Năm 1955 bà Nga tập kết ra Bắc cùng với con gái Vũ Anh, khi ấy, bà đang
mang thai người con thứ hai về sau được đặt tên là Lê Kiên Thành. Thoạt
đầu, bà Nguyễn Thụy Nga được phân công làm việc ở báo Phụ Nữ Việt Nam.
Trong suốt mùa hè đầu tiên ở miền Bắc, bà được bố trí ở trong một gara ô
tô mái lợp tôn nóng bức cùng với hai phụ nữ có con nhỏ khác. Về sau, bà
Mai Khanh, vợ của ông Phạm Hùng, đưa bà về ở chung trong một biệt thự
trên đường Phan Đình Phùng. Tuy nhiên, ở đây mẹ con bà đã không khỏi
chạnh lòng khi những người khách đến thăm ông Phạm Hùng tặng quà con cái
chủ nhà mà không ai để ý đến những đứa trẻ, con của một lãnh đạo tối
cao, khi ấy cũng đang khát khao quà cáp.
Một trong những việc đầu tiên mà bà Nga làm khi ra Bắc là viết thư về
thăm người bố chồng mà bà chưa bao giờ gặp mặt. Khi ấy, bố ông Lê Duẩn
đang sống ở Nghệ An với con dâu là bà Lê Thị Sương, người vợ đầu ở quê
của ông. Thoạt đầu, bố chồng bà đã nhờ Khu ủy Khu IV gửi trả lại món quà
của bà Nga, còn bà Lê Thị Sương thì chỉ khóc. Tuy nhiên, tình hình được
cải thiện khi bà Sương chấp nhận trả lời thư của bà Nga (427). Sau đó,
trong một dịp Tết, bà Nga đưa con về Nghệ An thăm nhà chồng. Những đứa
trẻ Vũ Anh, Kiên Thành đã chiếm được cảm tình của ông nội và bà “mẹ
lớn”.
Nếu không có sự “tham gia” của đoàn thể, có thể ông Lê Duẩn đã thu xếp
được chuyện gia đình với hai người vợ. Nhưng, trước khi ông Lê Duẩn được
điều ra Hà Nội, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh Phạm Hùng, chị Nguyễn Thị
Thập nói với tôi, trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây
giờ cũng vì sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tròn
nhiệm vụ”. Khi ấy Quốc hội vừa có Luật Hôn nhân và Gia đình quy định chế
độ “một chồng, một vợ”.
Ông Lê Duẩn ra, vui mừng gặp lại người vợ trẻ. Nhưng, theo bà Nga: “Một
hôm anh nằm gần cửa sổ trên sàn nhà, đầu anh gối lên đùi tôi để tôi nhổ
tóc bạc cho anh. Tôi nói: ‘Các anh chị đề nghị chúng ta ly dị nhau’.
Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn
cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau
trong lòng anh sẽ không bao giờ yên ổn. Người cộng sản thì phải có thủy, có chung, có tình có nghĩa’. Tôi
khóc”. Mấy hôm sau, ông Lê Duẩn dẫn vợ sang Trung ương Hội Phụ nữ để
trình bày, nhưng theo bà Nga thì “nhiều chị phản đối kịch liệt”. Từ đó,
bà Nga nói: “Tôi trở thành đối tượng bị các chị ghét bỏ. Tôi là tỉnh ủy
viên, khi ra Bắc còn chế độ nằm bệnh viện Việt Xô, nay Trung ương Hội
cắt hết những quyền lợi đó, coi tôi như là một tội phạm chính trị” (428).
Những đồng chí của ông Lê Duẩn như Lê Đức Thọ, người đã mai mối bà Nga
cho ông, giờ đây cũng im lặng. Bà Mai Khanh, vợ ông Hai Hùng, người chủ
hôn, thì cùng với vài cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động gia đình
chống lại bà. Khi ông Lê Duẩn ra Bắc, bà Nga cũng chỉ “thỉnh thoảng mới
về số 6 Hoàng Diệu để thăm chồng”. Bà kể: “Có đêm chúng tôi đang nằm bên
nhau đùa giỡn với bé Thành thì con gái của anh, bé Hồng, từ ký túc xá
trường đại học về đập cửa rầm rầm và la khóc. Anh khuyên tôi: ‘Thôi em
đi cho nó yên’. Đi đâu? Tối hôm đó bà Nga sang nhà bà Bảy Huệ, phu nhân
của ông Nguyễn Văn Linh; đến nửa đêm, bà Bảy Huệ đưa bà về lại số 6
Hoàng Diệu. Bà Nga nhớ lại: ‘Khi ấy Hồng đã vào trường, thấy tôi mắt anh
mừng, sáng rỡ’ ” (429).
Tháng 12-1957, chỉ năm tháng sau khi đoàn tụ, ông Lê Duẩn phải thu xếp
để cho người vợ trẻ sang Bắc Kinh công tác. Khi ấy bà đang có mang ba
tháng, vừa nuôi ba đứa con vừa công tác, vừa học trong vòng năm năm.
Thỉnh thoảng, trong những chuyến công du dừng chân ở Bắc Kinh, ông Lê
Duẩn mới có dịp ghé thăm. Tháng 7-1962, bà Nga trở về Việt Nam nhưng
không phải để đoàn tụ. Bà được phân công làm việc ở báo Hải Phòng. Bà
Nga kể: “Thỉnh thoảng anh xuống thăm mẹ con tôi nhưng không một lần nào
vui vẻ, vì thường anh phải đưa cô con gái của người vợ trước đi theo.
Thấy anh và tôi thân mật với nhau là nó đập phá la khóc, anh lại phải
buồn hiu ra về” (430).
Một lần lên Hà Nội họp, bà Nga về thăm chồng ở số 6 Hoàng Diệu. Bà kể:
“Vào nhà thấy Hồng đang ăn cơm với ba, tôi vào trong thay áo ngoài. Vừa
bước ra thì Hồng cầm chén cơm có chan canh đổ từ trên đầu xuống” (431). Bà
Nga viết: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 Hoàng
Diệu. Nhưng tôi chết thì nhẹ cho tôi, còn anh, còn mấy đứa con tôi sẽ ra
sao? Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Con tôi sẽ mất mẹ. Vì Đảng, vì tình
thương mà tôi đã vượt qua” (432). Tình riêng gác lại, từ đây Lê Duẩn được
mô tả như là một người dành hết tâm, lực của mình cho đất nước.
Chấp chính và chuyên chính
Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, Lê Duẩn trở thành Bí thư Thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thời gian này, thường các ủy viên Bộ
Chính trị rất ít khi gặp nhau. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, mỗi người ở một
biệt thự riêng và sinh hoạt chi bộ ở nhà với thư ký, lái xe, bảo vệ. Ông
Đậu Ngọc Xuân kể: “Nhiều cụ Bộ Chính trị vẫn giết thời gian bằng cách
chơi tú-lơ-khơ với tổ phục vụ, nhưng anh Ba thì chủ yếu dùng thời gian
đọc sách. Vốn tiếng Pháp không nhiều lắm nhưng ông vẫn cố dành cả ngày
để đọc bộ Bách khoa Toàn thư bằng tiếng Pháp. Mỗi khi chúng tôi rủ ông
chơi tú-lơ-khơ, ông nói: tôi đọc sách cũng là giải trí”. Các ủy viên
Trung ương lại càng ít việc. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Phó Chủ tịch nước
Tôn Đức Thắng, vốn là một thợ cơ khí, nhiều hôm đã lật chiếc xe đạp của
ông ra sửa để giết thời gian.
Theo ông Hoàng Tùng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy lề lối sinh hoạt
của các thành viên trong cơ quan lãnh đạo tối cao là không ổn. Cụ Hồ
nói: “Ta phải lập một chi bộ gồm tất cả ủy viên Bộ Chính trị, Bác làm bí
thư để hàng tuần các đồng chí lãnh đạo còn ngồi lại với nhau chứ họp ở
nhà thì coi như không làm gì cả”. Thế rồi cuối tuần, Cụ Hồ làm cơm mời
các ủy viên Bộ Chính trị tới ăn, nhiều người nghe hỏi: “Hôm nay có
chuyện gì hay sao thế?”. Tôi bảo: “Bác lập chi bộ”. Vào bữa, Cụ Hồ nói:
“Hôm nay họp chi bộ, các chú chuẩn bị kiểm điểm, họp ở nhà toàn cần vụ,
lái xe thì ai kiểm điểm các chú”. Thế nhưng, theo ông Hoàng Tùng, ăn thì
họ vẫn tới ăn nhưng có khi vẫn không ai nhìn nhau cả. Có bữa ông Lê
Duẩn nói “Tôi về nhà làm việc với lái xe, bảo vệ đây”.
Khi Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam, cuộc gặp chiều thứ bảy bỏ. Theo
ông Hoàng Tùng: “Nguyễn Chí Thanh nói với Cụ Hồ: ‘Tôi đi Nam tôi rất
phấn khởi, chỉ sợ ở nhà không ai chống xét lại’. Cụ Hồ cũng rất buồn, có
dịp 19-5, Cụ bỏ lên Ba Vì, Bộ Chính trị kéo lên theo, Cụ bảo: ‘Các chú
lên làm gì?’. Mọi người nói: ‘Lên chúc thọ Bác!’. Cụ Hồ mắng: ‘Thọ thì
có gì mà chúc, điều quan trọng là các chú phải từ bỏ chủ nghĩa cá nhân
đi, các chú phải đoàn kết, có đoàn kết mới thống nhất Bắc- Nam được. Các
chú mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, chú Lê Duẩn cũng cá nhân chủ nghĩa’.
Năm 1967, Cụ Hồ bảo tôi và Tố Hữu thảo bài nói chuyện ‘Nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân’, tôi viết chủ nghĩa cá nhân chung
chung, Cụ bảo: ‘Vấn đề là ở cấp trung ương chứ không phải ở cơ sở’ ”.
Ông Trần Việt Phương, người cùng với Vũ Kỳ, Lưu Văn Lợi, sống bên cạnh
Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch từ năm 1954 đến 1969, kể: “Hồ Chí Minh nói:
‘Chú Ba, chú Năm, chú Tô phải thống nhất ý kiến với nhau rồi mới đưa ra
Bộ Chính trị’. Bộ Chính trị họp ngay nhà sàn, trước họp ở Phủ Toàn
quyền cũ. Khi về Hà Nội, chính phủ lúc đầu ở 108 sau về Phủ Toàn quyền.
Nhưng rồi Hồ Chí Minh xuống ở dãy nhà của những người phục vụ Toàn quyền
Pháp. Hồ Chí Minh chọn nhà ở một tầng của một người thợ điện. Phạm Văn
Đồng ở cách đấy mười mét, dãy nhà sau, tầng thứ hai. Chúng tôi ở trong
một garage trước chứa mười chiếc ô tô nằm giữa nhà Hồ Chí Minh và Phạm
Văn Đồng. Phạm Văn Đồng nhiều lúc trở thành người trung gian giữa Trường
Chinh và Lê Duẩn”.
Vai trò của Bí thư Lê Duẩn càng trở nên nổi bật sau khi Hồ Chí Minh qua
đời. Sau khi khiến dân chúng xúc động qua bài điếu văn đọc trong “Lễ
tang của Bác”, ông được mô tả như là một học trò xuất sắc nhất của “Cha
Già Dân tộc”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân, khi bệnh tình của Hồ Chí Minh đã chuyển sang
giai đoạn khó lòng cứu chữa, Bộ Chính trị phân công ông Phạm Văn Đồng và
ông Trần Quốc Hương chuẩn bị bài điếu văn để Bí thư Lê Duẩn đọc. Ngày
2-9-1969, Cụ Hồ đã qua đời, nhưng khi đọc bản dự thảo điếu văn vẫn không
ai đồng ý. Ông Lê Duẩn nói với Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân: “Tôi lo quá,
hai chú nghĩ xem ta tự viết lấy được không”. Xem bản thảo do bên chính
phủ viết xong, ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Anh Ba ơi, bài điếu văn này chỉ
viết để dành cho cán bộ bình thường thôi, không phải cho lãnh tụ”.
Ông Xuân kể tiếp: “Khi ấy, tôi sực nhớ có hai bài điếu văn mà khi học
tiếng Nga ở Liên Xô tôi rất thích: bài điếu đọc trước mộ của Karl Marx
và bài điếu do Stalin đọc trong lễ tang Lenin” (433). Khi ấy đã chín giờ
đêm, ông Đậu Ngọc Xuân lập tức yêu cầu Văn Phòng Trung ương lục tìm
trong các tuyển tập hai bài điếu văn ấy. Đến mười hai giờ thì tìm ra, cả
ông Xuân và ông Đống Ngạc viết luôn một mạch cho tới năm giờ sáng. Theo
ông Xuân thì điểm nhấn mà ông học được từ bài điếu văn đọc trong lễ
tang Karl Marx và Lenin là câu “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề!”.
Sáng hôm sau, ông Lê Duẩn xuống, hỏi ngay: “Ra không?”. “Dạ có, không
giống hai bài cũ”. “Đưa tôi xem”. Trong cuộc họp sau đó, các ủy viên Bộ
Chính trị đã lần lượt nghe đọc qua năm dự thảo. Đến bài do nhóm giúp
việc của ông Lê Duẩn trình thì ông Trường Chinh nói: “Đúng đây rồi!”. Bộ
Chính trị liền giao cho Tố Hữu phối hợp với các ông Đống Ngạc, Đậu Ngọc Xuân, hoàn chỉnh. Khi bài điếu văn
đã hoàn thành, có một lo ngại khác đó là giọng Quảng Trị của ông Lê
Duẩn. Ông Duẩn vốn rất dở khi đọc diễn văn, nhưng đến bài điếu văn này,
theo ông Xuân, ông Duẩn nói: “Các chú đưa đây và yên tâm, mai tôi sẽ đọc
được”. Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí Minh, như nằm ngủ trong cỗ quan
tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đã khóc”.
Khi đã trở thành người “kế tục sự nghiệp của Bác”, Lê Duẩn càng thăng
hoa. Có thời gian ông kéo nhóm giúp việc xuống Đồ Sơn và ở lại đó khá
lâu để “tư duy”. Bộ Chính trị hầu như không biết ông đang làm gì ở đó.
Một ủy viên quyền bính vào hàng bậc nhất như Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc
Hoàn mà cũng mù tịt. Một lần, nhân khi Giáo sư Trần Phương từ Đồ Sơn trở
về, ông Hoàn đã mời ông Trần Phương tới nhà dùng cơm. Ông Trần Phương
nói: “Khi đó, tôi thấy lo lo, không biết có gì xảy ra mà bộ trưởng Nội
vụ lại muốn gặp riêng. Nhưng trong bữa ăn, khi thấy ông Hoàn dò hỏi xem
ông Lê Duẩn đã làm gì ở Hải Phòng, thì tôi thở phào nhẹ nhõm”. Ông Trần
Phương nhớ lại: “Ở Đồ Sơn, ông ra tắm biển. Mọi người không thấy ông
bơi, ông nhìn trời, nhìn nước, nhìn mây và suy nghĩ. Thực ra ông không
tắm trong nước biển mà tắm trong những dòng suy tưởng. Lắm khi đùng một
cái, ông quay lại nói về một loạt những suy nghĩ mà ông mới nảy sinh qua
sóng biển đó” (434).
Mỗi khi nói tới Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt vẫn tự trách
mình: “Chúng tôi ra Hà Nội mà ít ai ý thức được là mình đang tham gia
quyết định vận mệnh, đường đi của dân tộc. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt
đối vào sự anh minh của lãnh tụ còn mình thì đến đại hội như đến một đại
lễ mừng chiến thắng”. Đây có thể là sự nuối tiếc của một con người
trách nhiệm. Nhưng, ngày 14-12-1976, khi Đại hội IV chính thức khai mạc ở
Hội trường Ba Đình, mọi việc đã được Lê Duẩn và Trung ương quyết
định (435). Trước đó, trên chiếc chuyên cơ IL-19 chở đoàn đại biểu của Đảng
bộ Thành phố bay từ Tân Sơn Nhất ra Hà Nội, ông Võ Văn Kiệt đã nhận
được lời chúc mừng của các vị đi chung về việc tại Đại hội IV, ông sẽ
trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.
Tại Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, Bí Thư Lê Duẩn nói: “Việt Nam
bây giờ, đi như thế nào để tạo ra được chủ nghĩa xã hội? Đây là một vấn
đề khó, khó vì sao? Chưa bao giờ người ta nói đến một nước đi từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong lịch sử chưa có quy
luật đó. Mác chưa nói, Lenin cũng chưa nói. Sở dĩ có chuyện đó là do ta
có các nước lớn giúp đỡ thôi”. Lê Duẩn đánh giá: “Các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đã lợi dụng sự sa lầy và suy
yếu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam mà lớn lên”, trong khi “đế quốc Mỹ
và hệ thống thế giới của chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng suy yếu và
đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện”.
Hơn một năm sau, tại Hội nghị Trung ương 25, quan điểm của ông Lê Duẩn
về “chỗ dựa” đã hoàn toàn thay đổi, ông nói: “Trước đây, chúng ta nghĩ
rằng đi từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa chủ yếu nhờ có sự giúp đỡ của phe ta. Nay ta thấy,
nghĩ như vậy là không đúng… Việc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước
trước hết là do quy luật bên trong của nền kinh tế nước ấy quyết định,
do nước ấy tự làm, tự đi lên là chính” (436). Theo ông Trần Phương: “Khi
giải phóng miền Nam, chúng tôi đặt câu hỏi, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân rồi thì làm gì? Gần như mọi người đều tán thành: còn
có thể làm gì hơn là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”. Ông Trần Phương
nói tiếp: “Tư tưởng đó là của của Lenin. Khi đó thì đầu óc của mình chỉ
biết có Lenin, cái gì Lenin đã nói thì không tranh cãi”.
Việc Đại hội Đảng lần thứ IV áp đặt mô hình kinh tế miền Bắc cho cả
miền Nam là điều không thể tranh cãi. Đó là vận nước. Những điều được
viết trong đường lối Đại hội IV (437) chưa phải là chính sách, chưa phải là
những quy phạm, mà chỉ là những khái niệm mơ hồ thể hiện khát vọng của
những người cộng sản. Những ngôn từ rất chung ấy có thể được suy diễn
theo hướng tích cực bởi những người có đầu óc thực tế và có trách nhiệm
với dân. Nhưng các nhà lãnh đạo khi ấy không chỉ so mình với “lịch sử
4.000 năm”. Bí thư Trung ương Xuân Thủy, khi làm thơ, còn tưởng “Ta đang
tới đỉnh cao nhân loại”. Câu thơ ấy của Xuân Thủy minh họa phát biểu
của Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25 – người lãnh đạo cao nhất,
khi ấy, cũng tưởng thế giới đang nhìn Việt Nam “khâm phục lắm” (438).
Ngay từ ngày 09-08-75, tức là chỉ hơn ba tháng sau khi giành được chiến
thắng ở miền Nam, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết “triển khai thăm dò dầu
khí trên cả nước”, với yêu cầu “nhanh chóng tìm ra và khai thác nhiều
dầu, khí, vừa đủ dùng trong nước, vừa có thể xuất, tạo nguồn ngoại tệ
quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”. Chưa đầy một
tháng sau Hội nghị Trung ương 24, ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, sáp nhập hơn sáu mươi
tỉnh thành của cả nước thành hai mươi chín tỉnh và bốn thành phố. Việc
sáp nhập các tỉnh theo Nghị quyết 245 là “nhằm xây dựng các tỉnh thành
những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chánh có khả năng giải
quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất”.
Nếu như ở Hội nghị Trung ương 24, ông Lê Duẩn còn thấy phải thận trọng
khi áp dụng mô hình miền Bắc vào miền Nam, thì ở Hội Nghị Trung ương 25,
tháng 9- 1976, ông nói: “Ta có thể đem những hiểu biết (hợp tác xã ở
miền Bắc) ấy vào làm ở miền Nam, làm trên cả 500 huyện trong cả nước để
trong vòng năm năm tới, nông nghiệp cả nước sẽ lên chủ nghĩa xã hội như nhau” (439). Ý tưởng của
Tổng Bí thư Lê Duẩn về “pháo đài huyện” ngay lập tức trở thành đề tài
nóng bỏng của cả bộ máy tuyên truyền, các địa phương đua nhau đi tiên
phong. Nhiều nơi đòi “thay trời đổi đất, sắp đặt lại giang san” (440). Ở
huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh (441), chính quyền quyết định xóa bỏ làng xóm cổ
truyền, đốn bỏ vườn cây ăn trái từ hàng trăm năm, dời các hộ nông dân
lên đồi cao, để thổ cư cũ biến thành ruộng lúa (442)…
Cùng với mô hình kinh tế, bộ óc “200 bougies” của ông Lê Duẩn còn sáng
tạo ra mô hình chính trị “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”, và sáng tạo ra mô hình “làm chủ tập thể”. Cho dù các nhà lý luận
hàng đầu trong Đảng lúc ấy cũng không hiểu Tổng Bí thư Lê Duẩn thực sự
nói gì (443), sau Đại hội Đảng lần thứ IV, làm chủ tập thể trở thành một
môn học học bắt buộc trong các nhà trường.
Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói:
“Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt
của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim
khí. Thứ ba là làm chủ tập thể” (444).
Đúng như ông Đậu Ngọc Xuân nhìn nhận, “phải sáng tạo lắm mới thoát ra
khỏi sự giáo điều”. Mà muốn sáng tạo thì cũng phải dựa trên khả năng tư
duy của những con người cụ thể. Lê Duẩn vào thời điểm ấy cho dù vẫn cháy
bỏng những khát khao cũng không tránh khỏi những hạn chế về học vấn và
sức khỏe.
Từ đầu thập niên 1970, bệnh tiền liệt tuyến đã khiến cho Lê Duẩn không
có một đêm nào ngủ yên (445) và không còn khả năng lắng nghe (446). Ông Nguyễn
Văn Trân (447) nhận xét: “Anh Lê Duẩn có thói quen hay cắt lời người khác.
Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, họp Ban Bí thư có khi anh nói gần suốt
cả buổi, không mấy ai còn thời giờ nói ý của mình”. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp viết: “Anh Ba là một con người giàu tình cảm cách mạng, có khi sôi
nổi. Do đó, một mặt thì dễ gần gũi với cán bộ, quần chúng mặt khác lại
có những phản ứng quá mức đối với những ý kiến khác mình. Điều đó đã hạn
chế không khí dân chủ trong nội bộ, nhất là về những năm cuối đời” (448).
Lê Duẩn từng nhắc nhở thuộc cấp tránh hiện tượng “đảng là của tôi, nhà
nước là của tôi, của một người” (449). Nhưng ông đã không nhận thấy chính
mô hình chính trị mà ông đặt ra đã mắc phải những gì mà ông cảnh báo: từ
chỗ còn “có cái phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc” (450) đến chỗ đối
với những ý kiến khác, chỉ còn chuyên chính. Năm 1976, Bí thư Thứ nhất
Lê Duẩn tuyên bố: “Chế độ ta là chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước
hết là đường lối của giai cấp vô sản… Đường lối đó là khoa học nhất, là
đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai,
chia sẻ với ai và không hợp tác với ai… Đường lối đó là đường lối của
giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó
thì bắt” (451).
***
Chú thích chương 8
(382) Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 933.
(383) Lâm Văn Tết (1896-1982) là một trí thức có uy tín lớn ở miền Nam.
Gia đình ông là một đại điền chủ ở Bạc Liêu. Từ năm 1943, ông Lâm Văn
Tết hoạt động chống Pháp nhưng thân Nhật. Ông từng ủng hộ Việt Minh
nhưng sau đã bỏ về thành vì không tán thành cộng sản. Dưới thời Ngô Đình
Diệm, ông chống lại sự can thiệp của Mỹ và khi ông Diệm bị lật đổ, Lâm
Văn Tết được mời làm phó chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia, một cơ quan
giống như thượng viện (nhưng không do dân bầu). Từ năm 1965, khi ông bày
tỏ sự bất mãn trước việc quân Mỹ được đưa tới miền Nam, cán bộ trí vận
đã vận động được ông bỏ thành theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam.
(384) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 182.
(385) Các tuyên bố quan trọng của Mặt trận đều do Ban Bí thư chuẩn bị từ
Hà Nội rồi chuyển vào cho Trung ương Cục. Trong bức điện số 598 ngày
30-4-75, Ban Bí thư gửi Trung ương Cục, viết: “Ngoài này đang chuẩn bị
tuyên cáo của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Khi làm xong sẽ điện vào các
anh góp thêm ý kiến” (Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản
Chính trị Quốc gia 2004, trang 180). Ban Bí thư làm việc chi tiết đến
mức, ngay trong ngày 30-4-1975, đã gửi “Điện 597” hướng dẫn: “Bình
thường, thì treo một cờ Chính phủ Cách mạng, những ngày lễ lớn thì treo
thêm cờ đỏ sao vàng. Trước mắt, vào Sài Gòn treo một cờ miền Nam, đến
ngày mừng chiến thắng chung hãy treo hai cờ” (trang 179).
(386) Theo Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam Nguyễn Thị Bình: “Vấn đề chính trị nổi lên lúc này là nên thống
nhất về mặt hành chính nhà nước vào thời gian nào? Có ý kiến cho rằng
việc thống nhất hoàn toàn đất nước là không có gì phải bàn cãi vì là
nguyện vọng sâu xa của toàn dân trên cả hai miền. Độc lập và thống nhất
là mục tiêu cơ bản của cuộc đấu tranh trong mấy chục năm liền của dân
tộc. Nhưng có nên duy trì trong một thời gian hai chính quyền với những
chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc là xã hội chủ nghĩa, còn miền Nam
là chế độ dân tộc, độc lập, trung lập theo cương lĩnh của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam? Như vậy là để miền Nam có thể tranh thủ sự viện
trợ và hợp tác rộng rãi không những của các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước dân tộc mà cả các nước và tổ chức tư bản. Sau cùng, ý kiến nhất trí
cho rằng nên thực hiện thống nhất đất nước hoàn toàn về các mặt càng
sớm càng tốt. Tôi đã giơ tay tán thành” (Nguyễn Thị Bình, Hồi ký, Nhà
Xuất bản Tri Thức 2012, trang 189).
(387) Theo nhà báo, cựu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.
(388) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 163.
(389) Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 223.
(390) Chữ R có thể xuất xứ từ chữ Ré-gion tiếng Pháp.
(391) Lúc ấy là phó bí thư Sài Gòn - Gia Định.
(392) Bí thư Lê Duẩn nói: “Tôi đi vào trong đó xem, họ có cái máy trộn
nhựa đường, cho đá vào, họ bảo trộn như thế ngay lập tức có thể tráng
được 100 lần[?]. Còn ta thủ công, ngồi ngay ngoài đường làm, không được
bao nhiêu cả… Tại sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong
kia? Mình trả lời sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh lại không
bằng được trong kia, anh trả lời làm sao?... Tại sao chúng nó là tư
bản, chúng nó bóc lột rất dữ mà năng suất vẫn cao?”. Rồi ông trả lời:
“Vì tư bản đã đi đúng theo quy luật của tư bản, nó bóc lột nhưng mà vẫn
tiến lên. Còn ta là chủ nghĩa xã hội nhưng ta đã chưa đi đúng theo quy
luật xã hội chủ nghĩa của ta. Đúng mặt này nhưng chưa đúng mặt kia, cho
nên ta cứ chập chờn mãi, chòng chành mãi”. Ông Lê Duẩn nói tiếp: “Anh
Năm[Trường Chinh] có đề nghị với tôi rằng ở miền Bắc cũng cứ cho những
người thợ thủ công làm chủ một số công nhân, cứ cho họ làm đi, chứ không
phải chỉ riêng miền Nam đâu. Tôi cho rằng cũng nên làm việc này, cho tự
do phát triển… Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để
mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu
này... Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hoá ngay lập tức… Nhưng miền
nam bây giờ không thể làm như vâỵ được. Miền Nam bây giờ nếu anh không
để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, mà nông dân thì phần nào hóa tư sản
rồi, anh mà làm sai đi thì công nông không liên minh được đâu. Phải có
tư sản, phải cho nó phát triển phần nào đã. Phải để kinh tế mấy thành
phần thì nông dân mới theo ta, liên minh mới chặt chẽ được. Bây giờ nông
dân ở miền nam họ làm rất khá. Bắt hợp tác hoá là không đúng, năng suất
thấp xuống thì hỏng hết cả, nó sẽ không theo giai cấp vô sản nữa, không
thống nhất được đâu”( Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu
trữ tại Văn phòng Trung ương, VK.36.42).
(393) Ngày 13-8-1975, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nói: “Bây giờ nói đến thống
nhất đã. Chúng ta đồng tình thống nhất ngay bây giờ đây, đồng tình cả
rồi đấy. Nhưng tôi nghĩ, vấn đề này cũng là một vấn đề rất quan trọng:
có nội dung lịch sử của nó cơ; có nội dung chính trị, kinh tế, xã hội
của nó cơ… Các đồng chí hôm qua nói, thắng lợi trọn vẹn nhất, chữ trọn
vẹn ấy, tôi hiểu khác các đồng chí, trọn vẹn nhất có nghĩa là ba mươi
năm nay từ khi có Đảng đến giờ, ta xây dựng được một nước Việt Nam Độc
lập Xã hội Chủ nghĩa. Độc lập và chủ nghĩa xã hội, trọn vẹn là cái đó
cơ” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn Phòng
Trung ương, VK.36.42).
(394) Nghị quyết Trung ương 24, khóa III, 1975.
(395) Mật danh của chiến dịch “Đánh tư sản” tháng 9-1975.
(396) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, khóa III: “Phải xoá bỏ tư sản
mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của họ, biến thành sở hữu
toàn dân do nhà nước quản lý. Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện
cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ
những cơ sở sản xuất kinh doanh quan trọng. Cho phép tư sản dân tộc tồn
tại và kinh doanh một số ngành nghề nhất định phù hợp với quốc kế dân
sinh, với số công nhân hạn chế, dưới sự chỉ đạo của nhà nước và sự giám
sát của công nhân” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu
trữ tại Văn Phòng Trung ương, VK.36.42).
(397) Ngày 1-9-1975, Thường Vụ Trung ương Cục đã làm việc với Thành uỷ
Sài Gòn-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến dịch X2”. Mở đầu, ông
Nguyễn Văn Trân, phổ biến: “Sau chiến thắng, chúng ta phải tiếp tục đưa
cách mạng Miền Nam đi lên. Trước khi tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, ta phải xác định tồn tại trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân
chủ là phải đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột, trước
hết là giai cấp tư sản mại bản. Chúng ta đã khẳng định đối tượng của
cách mạng như trên thì không bao giờ có ý kiến khác”. Bí Thư Đảng ủy Đặc
biệt Võ Văn Kiệt nói thêm: “Bộ Chính trị đã nhất trí với Trung ương Cục
và chỉ đạo chúng ta đánh dứt điểm tư sản mại bản như anh Trân đã trình
bày. Bộ Chính trị chỉ thị cho chúng ta thêm: Phải đánh và đánh sớm”. Chủ
trì buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, kết luận:
“Bước sang giai đoạn mới tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải thanh
toán hết giai cấp tư sản. Có nhiều cách thanh toán giai cấp tư sản và
nhiều lý do: phải đi vào nhiệm vụ mới, do sự cấp bách phải ổn định tình
hình đời sống nhân dân, ổn định sản xuất. Trước mắt phải đánh vào toàn
bộ giai cấp tư sản mại bản. Đối với giai cấp tư sản thường [tư sản dân
tộc], thì ta có biện pháp để họ làm ăn nhưng phải cải tạo họ. Đợt đầu ta
tập trung đánh một số, 60 tên, nhưng cần nghiên cứu sắc lại hơn nữa.
Cần nắm đầu sỏ trực tiếp các ngành quan trọng vì nếu không đánh nó sẽ
tác động thị trường.
Nói đánh 60 tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả ngàn tên” (Biên bản cuộc làm
việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày
1-9-1975).
(398) Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 17-12-2004.
(399) Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư 1992-1997.
(400) Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.
(401) Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 1982-1985.
(402) Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.
(403) Theo ông Trần Phương: “Trong một dịp nghỉ dưỡng bệnh dài ngày, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị tôi giúp ông hiểu lại toàn bộ hệ thống kinh
tế học của Marx trong bộ Tư Bản mà trước đó ông đã đọc. Từ đó, tôi dành
một tuần hai buổi lên nhà ông để trình bày có hệ thống từ quyển I cho
đến quyển IV, thời gian ‘giảng dạy’ kéo dài khoảng sáu tháng. Sau đó,
ông Giáp có giới thiệu với ông Phạm văn Đồng nên ông Đồng lại mời tôi mở
lớp. Lê Duẩn thì khác, ông không yêu cầu tôi giảng giải, ông muốn tự
đọc. Chỗ nào cần thì ông trao đổi trực tiếp với tôi. Trên cơ sở đó,
nhiều khi ông còn đi giảng giải ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở các cơ quan
về các tư tưởng kinh tế của Marx” (Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam,
Nhà Xuất bản Tri Thức 2008, trang 20).
(404) Trả lời phỏng vấn tác giả.
(405) Nhân Dân, 1-6-1958.
(406) Năm 1945, mặc dù ở Hà Nội, Liên Xô có đại diện, nhưng người của
Stalin chỉ đến gặp Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để tìm hiểu về
những công dân Liên Xô trong quân đội Pháp-Nhật chứ không có cuộc gặp gỡ
ngoại giao nào.
Điện của Hồ Chí Minh gửi Stalin năm 1945 cũng không hề được ông ta trả
lời. Năm 1947, trong một chuyến thăm Châu Âu, Phạm Ngọc Thạch tìm cách
liên lạc với Liên Xô và đã gặp được đại diện Liên Xô tại Thụy Sĩ. Tháng
12-1947, ông Thạch gửi thư đề nghị giúp đỡ tới Moscow. Nhưng ông đã phải
về tay không. Đầu năm 1948, Hoàng Văn Hoan, một nhà lãnh đạo từng gắn
bó với Hồ Chí Minh từ thập niên 1920, cũng từ Trung Quốc đến Thái Lan,
sử dụng các mối quan hệ trong Ban Cán sự Hải ngoại của Đảng để liên lạc
với các quốc gia cộng sản nhưng cũng không đạt kết quả.
(407) Theo Trần Dân Tiên, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch, xuất bản năm 1948.
(408) C.E.Goscha, 2006.
(409) Năm 1924, trong “Thư gửi đồng chí Pêtrôp, Tổng thư ký Đông Phương
Bộ”, Nguyễn Tất Thành, khi ấy đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc, viết: “Đấu
tranh giai cấp ở phương Đông không giống Phương Tây, chủ nghĩa Marx xây
dựng cơ sở lịch sử của mình ở châu Âu, mà châu Âu không phải là toàn thế
giới”. Nguyễn Ái Quốc cũng đề nghị: “Cần bổ sung chủ nghĩa dân tộc, một
động lực của lòng yêu nước, vào chủ nghĩa Mác”. Nguyễn Ái Quốc khi đó
chủ trương “đoàn kết các tầng lớp yêu nước, tiến hành chống đế quốc
trước - để giải phóng dân tộc; đồng thời hạn chế sự bóc lột của phong
kiến, thành lập chính quyền cộng hòa dân chủ nhân dân, thay vì lập chính
phủ chuyên chính vô sản”. Những ý kiến trên đây của Nguyễn Ái Quốc trái
với những luận điểm của Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là Stalin. Hậu quả
là ông đã bị Stalin “hạn chế giao lưu với các đối tượng khác”. Năm 1925,
khi Nguyễn Ái Quốc trở về Châu Á, Quốc tế Cộng sản đã không cấp cho ông
giấy giới thiệu với Đảng Cộng sản Trung Quốc, với Quốc dân Đảng của Tôn
Dật Tiên, không cung cấp tài chính để ông đi đường và sinh sống.
(410) Ngày 14-7-1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78/SL, buộc “Các chủ
điền phải giảm tô cho tá điền từ 25% đến 35%; lấy ruộng đất của điền chủ
người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian chia cho nông dân”. Ngày
22-5-1950, ông ký Sắc lệnh số 89/SL: “Xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ
điền và tá điền trước 1945, nếu món nợ sau 1945 thì chỉ phải trả vốn mà
không phải trả lãi”. Ngày 20-4-1953, ký “Sắc lệnh Giảm tô”, bằng cách
“Giảm thêm giá thuê đất 25%, để tổng số phí tổn của tá điền không quá
1/3 hoa lợi”.
(411) Báo cáo của Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích cải cách ruộng đất là:
tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân,
thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất,
đẩy mạnh kháng chiến.
Phương châm là: làm cho nông dân tự giác tự nguyện đấu tranh giành lại
quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân.
Phương pháp là: phóng tay phát động quần chúng nông dân; tổ chức giáo
dục và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh. Phải dựa hẳn vào quần
chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng. Tuyệt đối chớ dùng cách ép
buộc, mệnh lệnh, bao biện, làm thay. Đường lối chính sách chung là: dựa
hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với
phú nông; tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt.
Phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến…”.
(412) Trong Nội San Cải Cách Ruộng Đất số ra ngày 25-2-1956, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Nhục hình là lối dã man, là cách của đế quốc, tư bản,
phong kiến, nó dùng để trị quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có cuộc
sống đúng, có lý lẽ đúng, có lực lượng mạnh, sao mà còn phải làm một
cách dã man? Dùng nhục hình là chưa tẩy sạch tư tưởng dã man, đầu óc
phong kiến đế quốc. Phải dùng nhục hình là vì không chịu khó phát động
quần chúng. Vì vậy tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục
hình là trái chính sách của Đảng, của Chính phủ, trái tác phong của cách
mạng… Đánh người ta đau quá thì không có người ta cũng phải nhận là có.
Như thế là cán bộ đã tự mình lừa mình. Từ nay các cô, các chú phải kiên
quyết sửa chữa khuyết điểm này”. Tháng 10-1956, Bộ Chính trị thừa nhận:
“Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc
đoán, trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng,
đánh tràn lan, đánh vào địch và đánh cả vào hàng ngũ của ta, quy bức
nhục hình phổ biến… Coi tổ chức của Đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền
và của quần chúng là do địch lũng đoạn, nên đã khủng bố tàn khốc những
người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán
của Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng”.
(413) Báo cáo của Bộ Chính trị năm 1956 kết luận: “Do phương châm và
phương pháp đều sai lầm, truy bức và nhục hình phổ biến, nên trong việc
chỉnh đốn chi bộ, đã đả kích tràn lan vào nội bộ Đảng, giải tán chi bộ
bừa bãi, bắt bớ và xử trí cả những đảng viên tốt, xử bắn lầm một số bí
thư chi bộ hay chi ủy viên có nhiều công lao với Đảng. Trong số 8.829
đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7.000 thuộc thành phần nông dân lao
động và thành phần lao động khác. Ở Hà Tĩnh thì hầu hết các chi bộ xã bị
kết luận sai là do phản động lũng đoạn. Có nơi chi bộ nào tốt nhất thì
bị đàn áp nặng nhất, đảng viên nào tốt nhất thì bị xử trí nặng nhất.
Nhiều chi bộ có công lớn trong kháng chiến đã bị coi là chi bộ phản
động, bí thư và chi ủy viên bị hình phạt: tù hoặc bắn”. Báo cáo năm 1956
của Bộ Chính trị viết tiếp: “Chỉnh đốn trên thực tế là một cuộc trấn áp
dữ dội bằng những thủ đoạn tàn khốc và trên một quy mô lớn đối với tổ
chức Đảng ta ở nông thôn. Ở cấp huyện và tỉnh, tổng số bị xử trí là 720
cán bộ và nhân viên, tỷ lệ là 21%. Nhưng nếu lấy cán bộ từ cấp ty trở
lên thì tổng cộng có 284 người, số bị xử trí lên 105 người. Tỉnh uỷ viên
tại chức dự chỉnh đốn 36 người, thì bị xử trí 19 người, tỉnh uỷ viên cũ
dự chỉnh đốn là 61 người thì bị xử trí 26 người, ủy viên ủy ban hành
chính tỉnh dự chỉnh đốn 17 người thì bị xử trí 15 người. Riêng Hà Tĩnh,
trong 19 tỉnh uỷ viên, công an hoặc huyện đội thì tất cả bị quy là phản
động, gần đây kiểm tra lại thì nhận thấy tất cả đều bị quy sai.
Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng
viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc
dã man… dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ, dùng truy bức nhục
hình đối với đảng viên, giao cho cán bộ của đội không phải là đảng viên
làm nhiệm vụ xử trí đảng viên…, sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc,
vi phạm những quyền tự do cá nhân của người công dân, đem phương pháp
đấu tranh với kẻ địch mà tiến hành đấu tranh trong nội bộ…”.
(414) Trong thời hạn đình chiến 300 ngày để hai miền chuyển quân theo
Hiệp định Geneve, khoảng 140.000 bộ đội và cán bộ cộng sản và gia đình
đã tập kết ra Bắc; chỉ có 4.358 dân thường hồi cư, một số là phu đồn
điền gốc Bắc vào Nam đã lâu, một số mới di cư vào tới nơi thì đổi ý…
Trong khi đó, theo thống kê của Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn của Chính quyền
Sài Gòn, có tới 950.000 người dân miền Bắc di cư vào Nam: 871.533 người
đi trước ngày 19-5-1955; 3.945 người đi trong thời gian gia hạn; 76.000
người khác đã dùng thuyền hoặc đi đường bộ xuyên rừng qua Lào để vào
Nam sau khi thời hạn tự do đi lại giữa hai miền chấm dứt.
(415) Khi ấy là chuyên viên của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
(416) Hội nghị quốc tế lần thứ II, còn gọi là “Hội nghị 81 đảng”, họp vào
tháng 11-1960. Đoàn Việt Nam do Bí thư thứ Nhất Lê Duẩn dẫn đầu đến
Moscow. Sau khi ông trở về, báo Nhân Dân ngày 7-12-1960 đăng xã luận:
“Trong ba năm qua, Đảng ta luôn luôn tỏ ra tuyệt đối trung thành với Bản
tuyên bố năm 1957. Từ nay về sau, cũng như đối với Bản tuyên bố năm
1957 trước đây, Đảng ta nguyện triệt để ủng hộ và tuân theo bản tuyên bố
mới, coi đó là vũ khí sắc bén của mình để tăng cường lực lương về mọi
mặt, và tiến lên giành những thắng lợi mới”.
(417) Đặng Phong, 2008, trang 51.
(418) Như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Cơ Thạch, Đoàn
Trọng Truyến, Nguyễn Đức Bình, nguyễn Khánh, Nguyễn Vịnh, Trần Quỳnh,
Trần Phương, Đậu Ngọc Xuân,…
(419) Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 44.
(419) Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 44.
(420) Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 41-42.
(421) Sđd, trang 42.
(422) Sđd, trang 43.
(423) Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 63.
(424) Ông Năm Hoành bị kết án tám năm tù, bị đưa đến một nhà lao dã chiến
ở Pleiku. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông cùng gần 100 người tù khác vượt
trại, trốn thoát sang Campuchia. Năm Hoành ở lại Campuchia cho đến năm
1963. Tại đây, ông biết tin Lê Duẩn đã an toàn ra Bắc. Năm 1964, khi
đang ở căn cứ Trung ương Cục, Năm Hoành nhận được một bức điện của “anh
Ba” Lê Duẩn: “Anh rất mừng được tin chú thoát khỏi trại giam của giặc và
chiến thắng trở về. Mong chú mau hồi phục sức khỏe để công tác tốt”
(Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 925).
Tháng 6-1971, Năm Hoành được đưa ra Bắc, chỉ vài hôm sau khi ông về nhà
khách K5B ở Quảng Bá, ông Lê Duẩn cho xe đến đón về nhà riêng ở số 6
Hoàng Diệu, ông Năm Hoành kể: “Tôi vừa đẩy cổng bước vào thì anh Ba ôm
chầm lấy tôi, nói, ‘Chú còn sống! Thế mà khi chú bị bắt anh cứ nghĩ là
chúng sẽ giết chú” (trang 926).
(425) Ủy viên Trung ương Khóa III.
(426) Trong thập niên 1990 là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
(427) Ngày 15-5-1955, bà Lê Thị Sương viết thư cho bà Nga: “Thân gửi dì
Nga! Trong năm có nhận được thư dì và cậu cháu Hãn (tức ông Lê Duẩn), vì
một phần trong người ốm đau, một phần bực một vài ý kiến trong thư dì,
nên cậu (cha ông Lê Duẩn) và tôi cũng có ý trách dì. Nhưng hôm nay nhận
được thư dì và chị Ái, thấy dì đã nhận được lỗi lầm. Và chị Ái cũng nói
hộ thêm, vì hoàn cảnh lợi ích cách mạng mà đoàn thể đặt vấn đề, tôi và
cậu lấy làm thương dì lắm. Tôi rất cảm ơn dì đã tích cực giúp đỡ cậu
cháu Hãn trong khi xa gia đình, xa tôi. Hôm nay cậu cũng nhận dì là
người trong gia đình và tôi thành thật xem dì như một người em, dì đừng
thắc mắc nữa mà tổn hao sức khỏe” (Nguyễn Thụy Nga, trang 76).
(428) Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 83.
(429) Sđd, trang 86.
(430) Sđd, trang 127.
(431) Sđd, trang 132.
(432) Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 132.
(433) Stalin là nhân vật mà Lenin đã nhiều lần tỏ ra quan ngại nếu quyền
lãnh đạo Đảng rơi vào tay ông ta. Nhưng, khi Lenin mất, Trosky thì đang
đi xa. Ở Moscow, Stalin bí mật chuẩn bị tang lễ và chuẩn bị một bài diễn
văn mà khi đọc lên đã khiến cho công chúng nghĩ Stalin chính là người
mà Lenin gửi gắm.
(434) Giáo sư Trần Phương, khi trả lời phỏng vấn tác giả, đã cho rằng:
“Những quyết định của ông Lê Duẩn cho dù hậu thế đánh giá thế nào thì
cũng đều là những cố gắng sáng tạo từ sự nung nấu trong tư duy, là những
sản phẩm của một bộ óc luôn luôn trăn trở, đầy trách nhiệm, đầy lo toan
cho lợi ích của Đảng, của nước, và của dân”.
(435) Theo Giáo sư Trần Phương: “Nghị quyết Đại hội IV đã được anh Lê
Duẩn chuẩn bị từ năm 1969. Trong vòng gần một năm trời, anh Lê Duẩn đã
tập hợp một số chuyên gia như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, tôi, Đậu Ngọc
Xuân, Đống Ngạc, Đào Duy Tùng, Nguyễn Khánh và có lúc xuất hiện Nguyễn
Đức Bình, rồi đưa xuống Đồ Sơn. Tại đây, anh Lê Duẩn phác ra ý tưởng,
bọn này chất vấn, thảo luận hoặc đồng tình. Khi viết gần xong, anh bảo:
“Khoan đã, chờ kết thúc cuộc chiến thế nào đã”. Việc chuẩn bị vì thế tạm
ngưng vào năm 1970. Đến 1973-1974 công việc lại được khởi động lại, đến
năm 1975 thì hoàn chỉnh”.
(436) Lược ghi phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện
Đảng toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 350.
(437) “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan
hệ sản xuất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng,
trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ…”.
(438) “Một nước nhỏ, đánh với một đế quốc to, giàu mạnh và ngoan cố, cầm
đầu phe đế quốc như Mỹ, [lại] trong điều kiện phe ta mất đoàn kết nghiêm
trọng, mà đã giành được thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn và triệt để thì
thật lạ lùng. Thắng lợi vĩ đại của ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước
là một điều hết sức bất ngờ với kẻ thù. Thế giới khâm phục và ngạc
nhiên lắm” (Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập
36-1976, trang 334).
(439) Phát biểu của Lê Duẩn, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 379.
(440) Khẩu hiệu của Tỉnh Nghệ Tĩnh
(441) Tỉnh ghép: Nghệ An-Hà Tĩnh.
(441) Tỉnh ghép: Nghệ An-Hà Tĩnh.
(442) Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, tác giả của các bài “địa phương ca” được đưa
đến Quỳnh Lưu để viết một ca khúc mà cuối thập niên 1970, gần như trên
hệ thống phát thanh, ngày nào cũng được cặp song ca tài danh Kiều
Hưng-Thu Hiền hát đi hát lại: “Ai đi qua Nghệ Tĩnh / Mà không dừng Quỳnh
Lưu / Đời hôm nay rộng mở / Xa bát ngát chân trời / Mảnh vườn xưa ngăn
chia / Đèn nhà ai nấy rạng / Ruộng đồng xưa phân chia / Chắn tầm xa
phóng khoáng…”.
(443) Giáo sư Phạm Như Cương kể: “Tư tưởng làm chủ tập thể… được sử dụng
như một rường cột cho mọi quan hệ chính trị và xã hội. Đích thân anh Ba
đã có nhiều buổi trình bày về tư tưởng đó ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở Học
viện Chính trị Trung-Cao…Các ‘cây lý luận’ đương thời đều được phân
công đi giảng bài, viết bài để phổ biến tư tưởng đó. Riêng ở Viện Triết
học thì chúng tôi không tích cực lắm… Tôi biết rằng hình như Tổng Bí thư
không được vui khi thấy một tư tưởng lớn mà ông rất tâm đắc như thế mà
tôi và viện triết lại không tích cực hưởng ứng, không chịu triển khai
nghiên cứu. Nhưng anh Lê Duẩn là người độ lượng, không có tiểu khí,
không hay có thành kiến cá nhân,… nếu có ai không đồng tình với anh thì
tuy không vui, nhưng anh không thù ghét, trù dập. Có một lần nhân tôi
lên làm việc với anh Trường Chinh, anh Trường Chinh cũng hỏi tôi về khái
niệm làm chủ tập thể của đại đội IV. Tôi thưa với anh Trường Chinh rằng
về vấn đề này báo chí cũng như các đoàn cán bộ của Trung ương đã trình
bày rất nhiều và đầy đủ lắm rồi. Tôi đã trình bày thẳng thắn với anh
rằng theo tôi nếu nhìn từ lý luận triết học thì có lẽ những cách giải
thích hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Anh Trường Chinh gật đầu và im lặng…Tôi
hiểu rằng có lẽ chính anh Trường Chinh cũng băn khoăn như tôi” (Đặng
Phong, 2008, trang 81-82). Triết gia Trần Đức Thảo cũng từng được ông Lê
Duẩn gọi đến để tìm sự chia sẻ “tư tưởng lớn” này. Giáo sư Trần Đức
Thảo nhớ lại: Một lần ở Hà Nội, tôi đang đạp xe đi chợ, bỗng có xe ô tô
xịch đến bảo tôi lên xe ngay để đi gặp Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng cũng phải tuân lệnh lên xe đi theo anh em, mà
chưa rõ có việc gì. Chiếc xe đạp của tôi có người nhận và hứa sẽ đem về
tận nhà cho tôi. Đến nhà Tổng Bí thư, được ông tiếp đón rất trân trọng.
Ông nói rằng ông muốn trình bày cho tôi nghe một tư tưởng triết học lớn
của ông là tư tưởng làm chủ tập thế. Tôi lễ phép lắng nghe. Sau khoảng 2
giờ liền, ông nói say sưa, tôi chỉ im lặng, không dám hỏi han gì. Sau
cùng, ông thấy nói mãi mà chẳng thấy tôi khen chê gì cả, ông phải nhắc
tôi: “Tôi biết anh là một nhà triết học lớn, tôi muốn nghe ý kiến của
anh”. Tôi bèn trả lời rất chân thành: “Thưa anh tôi thấy khó hiểu quá,
xin nói thật là tôi không hiểu”. Ông có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn từ tốn
hỏi lại: “Ô hay! Có thật là anh không hiểu gì không?” Tôi lại thưa:
“Thưa anh quả thật là tôi không hiểu gì cả. Sau đó ông thất vọng và bảo
tôi đi về”(trang 83).
(444) “Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp ngày
13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc”, “Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn”, lưu trữ
tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh.
(445) Năm 1973, sau chín năm xung phong vào chiến trường miền Nam, bà
Nguyễn Thụy Nga từ chiến trường Khu IX ra Bắc và nhận thấy ông Lê Duẩn
đã yếu đi rất nhiều. Bà Nga kể: “Khi miền Nam giải phóng anh mổ tiền
liệt tuyến, suốt ngày phải mang một túi ni lông bên hông. Sáng nào cũng
ba, bốn bác sỹ bu quanh làm thuốc. Vậy mà anh đi hết nơi này, nơi khác
để tìm hiểu tình hình” (Hồi ký Nguyễn Thụy Nga, Bên Nhau Trọn Đời, bản
thảo viết năm 1998, tr 187-188).
(446) Theo ông Trần Việt Phương: Khi Lê Duẩn sang dự Đại hội Đảng cộng
sản Liên Xô, Brejenev kể với ông rằng để chuẩn bị cho Đại hội, Liên Xô
phải huy động hàng trăm viện nghiên cứu, hàng nghìn nhà khoa học của
nhiều lĩnh vực khác nhau.
Lê Duẩn liền nói với Brejenev: “còn tôi, tôi chỉ cần mấy chú thư ký
thôi”. Một trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, viết trong hồi ký: “Lê
Duẩn là người tự mình suy nghĩ lấy những vấn đề cần giải quyết, chả bao
giờ nghe ý kiến của người khác, tự bản thân Lê Duẩn thể nghiệm sự đúng
đắn của những những ý kiến đó... Khi nói chuyện tay đôi với tôi, Lê Duẩn
thường coi tôi là một đối tượng nghe giùm, để định hình ý nghĩ của
mình, chứ không phải là người mà Lê Duẩn cần nghe ý kiến”.
(447) Bí thư Trung ương Đảng Khóa VI, viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương 1977-1987.
(448) Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 40.
(449) Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 25, Lê Duẩn nói: “Stalin vốn là
người trung thực, khiêm tốn, đọc tài liệu ta thấy trước đây đồng chí ra
đứng tận cổng đón từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị tới họp hoặc tới
gặp gỡ đồng chí, thế mà vào cuối đời mình vẫn phạm sai lầm. Vì vậy, cần
phải có một cơ cấu bảo đảm làm chủ tập thể, không để một cá nhân nào đó
chen vào, trồi lên, độc đoán, chuyên quyền. Thế giới có những kinh
nghiệm phức tạp, có hiện tượng đảng là một người. Đảng là tôi, nhà nước
là tôi. Ta cần rút kinh nghiệm để tránh” (Phát biểu của Lê Duẩn, Văn
Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang
403).
(450) Phát biểu trước Hội nghị Trung ương 25, Bí thư Lê Duẩn nói: “Triều Tiên làm rất găng trong việc phát huy sức lao động.
Ta cũng phải làm thế nhưng phải phát huy tính tự giác của nhân dân hơn.
Trong làm chủ tập thể, có cái tự nguyện, có cái phải thuyết phục, có
cái phải bắt buộc” (Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25,
Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, tr
361).
(451) Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng
Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37- 1976, trang 403-404.
No comments:
Post a Comment