Tác giả.
*Huy Đức - Trương Huy San.
*Sinh năm 1962 tại Hà Tĩnh.
*Nhập ngũ tháng 3-1979.
*Học viên trường Sỹ quan Hoá Học (1980-1983).
*Chuyên gia quân sự ở Campuchia (1984-1987).
*Phóng viên báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, và Sài Gòn Tiếp Thị (1988-2009).
*Blogger của trang Osinblog (2006-2010).
*Humphrey Fellow về phân tích chính sách tại Đại học Maryland (2005-2006).
*Nieman Fellow về phân tích chính trị tại Đại học Harvard (2012-2013).
*Liên hệ tác giả qua thư điện tử osinbook@gmail.com.
*Facebook: https://www.facebook.com/BenThangCuocBook.
*****
Thương yêu tặng Mỹ Đức
và hai con Thạch Thảo, Đức Trung
“Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
Bên nào thắng thì nhân dân đều bại”
(Nguyễn Duy)
Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu
trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần
cộng đồng trách nhiệm.
Cuốn
sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975.
Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven
đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì
tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi
năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi,
một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải
nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng
quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc
xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ.
Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài
cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi.
Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn
hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy, thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi
nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu
hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản
đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên
ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa –
biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô của
một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới
đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi
hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày (1), Thép Đã Tôi Thế Đấy (2). Những chiếc máy Akai,
radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng
tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ
không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như
miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.
Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh
trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội”, chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại
giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam,
rồi chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa
xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.
Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới
Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của
Trần Ngọc Phong (3,) một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần
mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu
bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù đã kiệt quệ sau tám năm
“giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy,
góc phố nào cũng có mấy bác xích lô vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo
đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu
Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy.
Mùa hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ
báo Tuổi Trẻ, gồm Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn
Tuấn Khanh, Huỳnh Thanh Diệu, Huy Đức. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ,
chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế
Thanh, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức tổng
biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ
Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.
Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở
đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người
vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng
Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở
đất nước này, đấy là lịch sử”. Không ai để ý đến câu nói này của Tuấn
Khanh, nhưng tôi lại bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư
liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi
kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.
Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong
chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975 đã trở thành sản phẩm của
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không biết một cách chắc chắn
điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm
thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II” (4), như
“Z30” (5) cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy
viên Bộ Chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có
nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch
sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên
truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương
tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 – ngày nhiều người tin là
miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt
hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại
là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế, chính trị học, và xã hội học
nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ
kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo,
đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến
tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc.
Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự
“đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái
quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong vòng
ba năm, từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012, tôi đã dành toàn bộ thời gian
của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và
một số nhà sử học, trong đó có năm nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên
nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản
thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy
nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín
tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho
cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn
sách này đến tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả
có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông
tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và
sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng
bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử
cần được biết như nó đã từng xảy ra, và sự thật là một con đường đòi hỏi
chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Sài Gòn – Boston, 2009-2012
***
Chú thích
(1) Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
(2) Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
(3) Đạo diễn điện ảnh.
(4) Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
(2) Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
(3) Đạo diễn điện ảnh.
(4) Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
(5) Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
No comments:
Post a Comment