* Phụ Lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384
Trong suốt hơn hai mươi năm kể từ ngày 30-4-1975, truyền thông trong
nước đã mặc nhiên thừa nhận chiếc xe 843 của Bùi Quang Thận đã húc đổ
cổng Dinhtrong khi sự thật chính là xe 390. Theo Trung tá Bùi Văn Tùng:
“Sau khi biết Thận là người cắm cờ, báo chí vây lấy cậu ấy. Chắc thằng
Thận không nói, nhưng các nhà báo suy ra Thận cắm cờ thì 843 của Thận
phải là xe vào trước. Khi về tới Long Bình, anh em đã báo cáo lên, xe
390 húc đổ cổng Dinh, nhưng khi nghe báo nói xe 843 anh em cũng cho qua.
Về sau, do vụ “ai cắm cờ” đã khá bầm dập nên nhiều người nghĩ, cải
chính làm chi cho phức tạp. Sau đó, Việt Nam lại xung đột với Trung Quốc
mà chiếc 390 là T59, viện trợ của Trung Quốc, trong khi chiếc 843, T54,
viện trợcủa Liên Xô nên càng không ai nghĩ tới việc làm rõ sự kiện
này”.
Lữ đoàn 203 có bốn chiếc tăng bị bắn cháy trước khi vào đến Dinh Độc
Lập. Vào lúc 9 giờ sáng, những chiếc tăng của Lữ 203 đã bị chặn lại
trong một trận đọ sức ác liệt giữa các chiến xa của hai bên. Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Đoàn 1, Ngô Quang Nhỡ, mở nắp tháp pháo nhô người ra chỉ huy
đã bị bắn xuyên qua trán, chết khi chiến tranh kết thúc chỉ còn trong
gang tấc. Chiếc tăng 866 khi chạy tới Thị Nghè cũng bị trúng đạn, một
người chết ngay tại chỗ, một người bị thương nặng rớt xuống đường. Những
người lính vào giờ phút ấy nhận ra sống sót là tấm huân chương quan
trọng nhất. Trong suốt hai mươi năm, bốn người lính trên chiếc tăng 390
tiếp tục chiến đấu ở Campuchia, ở phía Bắc rồi lầm lũi mưu sinh chứ
không hề tìm kiếm vinh quang. Khi coi phim tài liệu, thấy Bùi Quang Thận
cầm một lá cờ rất to, loại cờ không chứa trong những chiếc xe tăng tiến
vào Dinh trong ngày 30-4, Thiếu úy Lê Văn Phượng lại tặc lưỡi nghĩ
rằng, “lịch sử đôi khi được làm bằng báo chí”.
Sáng 1-5-1975, khi rút về căn cứ Long Bình, Lê Văn Phượng đã viết tường
trình đúng như những gì xảy ra. Anh không biết cấp trên báo cáo ra sao
để “lịch sử thành văn” chỉ nhắc đến chiếc xe của Bùi Quang Thận. Những
thước phim, những bức ảnh “húc đổ cổng Dinh Độc Lập” được phục dựng đã
thế chỗ sự thật và số phận của những người được nói đến thật cách biệt
với những người im lặng. Bùi Quang Thận sau ngày 30-4 được điều về Bộ
chỉ huy, còn Thiếu úy Lê Văn Phượng và ê-kíp xe 390 được điều lên biên
giới Tây Ninh, chuẩn bị cho cuộc chiến ở Campuchia, rồi tháng 3-1979 lại
được điều ra tham gia cuộc chiến tranh phía Bắc. Ba người trên chiếc xe
tăng 390 xuất ngũ năm 1981, một người, Lê Văn Phượng, xuất ngũ năm
1986. Kể từ đó, bốn anh em không có điều kiện gặp nhau.
Thượng úy Lê Văn Phượng ra quân, về quê; năm 1992 anh học hớt tóc, rồi
dựng lều hành nghề ở bờ hào bên thành nhà Mạc, bị công an đuổi chạy lên,
chạy xuống. Sau, người lính đã cho xe tăng nghiến lên cổng Dinh Độc lập
ấy đã phải chạy về mở lán cắt tóc gần cổng Trường Sĩ quan Lục Quân ở
Sơn Tây. Tuy không tranh dành quyền lợi ở chốn quan trường, nhưng trong
thẳm sâu, người lính ấy cũng tự hào về những gì mà mình đã làm cho đất
nước. Anh đem câu chuyện “húc đổ cổng Dinh Độc Lập” ra kể với các con.
Nhưng, ở trường, lịch sử được dạy không giống như những gì đã xảy ra.
Đứa con gái học tiểu học về khóc: “Bố nói bố chỉ huy xe 390 vào Dinh Độc
lập trước tiên, con khoe với bạn học và cô, nhưng bài học dạy, bác Bùi
Quang Thận lái xe vào trước và cắm cờ trên Dinh. Chúng bạn trêu con nói
phét. Con xin nghỉ học”. Lê Văn Phượng chỉ biết phân trần với chính
quyền địa phương nhưng nào ai biết là anh đúng hay sách đúng.
Mãi tới năm 1995, khi nữ ký giả Pháp có tên là Francoise De Mulder đến
Việt Nam, những người lính tăng trên chiếc xe làm nên lịch sử ấy mới có
dịp gặp nhau. Francoise De Mulder là người phụ nữ mà sau khi tăng 390
cán qua cổng Dinh đã chụp được tấm hình Lê Văn Phượng nhô đầu ra khỏi
tháp xe và nhìn thấy bà trong một khoảng thời gian rất ngắn. Francoise De
Mulder sinh năm 1944, sang Việt Nam làm phóng viên ảnh từ năm 1963, lúc
mười chín tuổi. Năm 1976, bà có mặt ở Lebanon, nơi có hàng trăm người
tị nạn Palestine bị hành quyết bởi lực lượng vũ trang cánh hữu Phalang.
Tại trại tị nạn ở quận Quarantaine – Beirut, bà chụp được cảnh một phụ
nữ đang van xin các binh lính tha chết cho chồng trên một đường phố đang
bốc cháy, ngay giữa thủ đô Beirut. Tấm hình này đoạt giải nhất của Giải
WPPA lần thứ 20, là ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới năm 1976. Bà
cũng là nữ ký giảảnh đầu tiên đoạt giải này. Năm 2003 De Mulder bị bệnh
bạch cầu và liệt người. Năm 2005, bà mất tại Paris, thọ 61 tuổi.
Năm 1995, tại Paris, bà Francoise De Mulder tổ chức triển lãm những tấm
ảnhbà chụp được trong ngày 30-4-1975. Những bức ảnh đã gây chú ý cho
một sỹ quan khi ấy đang làm tùy viên quân sự tại Pháp, anh đã giúp đỡ để
đầu tháng 3-1995, bà Francoise De Mulder về đến Việt Nam. Người đầu
tiên mà bà gặp là anh Nguyễn Văn Tập, lái tăng 390, khi ấy đang lái xe
ba gác ở Thái Bình. Rồi bà gặp anh Vũ Đăng Toàn, chính trị viên đại đội,
khi ấy đang nuôi heo ở Hưng Yên. Bà không tìmra anh Ngô Sỹ Nguyên, pháo
thủ I, vì khi ấy anh Nguyên không sống ở địa phương. Cuối cùng, bà đến
Sơn Tây gặp Lê Văn Phượng đúng khi anh đang hành nghề cắt tóc. Sau cuộc
gặp đó, ngày 22-6-1995, Thiếu úy Lê Văn Phượng được mời dự lễ kỷ niệm
ngày thành lập Lữ đoàn 203, bấy giờ đã phiên thành Trung đoàn xe tăng
203.
Ở đó, Lê Văn Phượng gặp lại Nguyễn Văn Tập và Vũ Đăng Toàn rồi cả ba
được vào tham quan Dinh, bấy giờ đã có tên là Dinh Thống Nhất. Khi đó,
họ mới biết chiếctăng 843 “hiện vật” vẫn được trưng bày tại Bảo tàng
Tăng Thiết Giáp, Hà Nội, còn chiếc “843” sau này trưng bày trong Dinh
chỉ là một chiếc tăng cùng loại được sơn và ghi số hiệu vào. Trong khi
chiếc xe của Bùi Quang Thận được sơn phết, bảo dưỡng, lau chùi, nâng niu
từ sau 30-4-1975 đến nay, tăng 390 vẫn rong ruổi trên chiến trường
Campuchia, mãi đến sau 1995 mới được đem về Bảo tàng Tăng Thiết Giáp.
Chuyến đi của Bà Francoise De Mulder được phát trên VTV và sau đó được
thể hiện lại trong một cuốn phim xúc động. Bốn chiến sĩ xe tăng 390 cũng
trở nên nổi tiếng nhưng là dưới một biệt danh mới do người xem đặt ra:
Ông gác đầm cá Vũ Đăng Toàn; Ông đánh giậm Nguyễn Văn Tập; Ông lái xe
lam Ngô Sĩ Nguyên; Ông cắt tóc bị công an đuổi ở Bờ Hào Lê Văn Phượng.
Các học viên Lục Quân sau khi biết Lê Văn Phượng qua bộ phim “Bốn chiến
sĩ xe tăng 390” thường để dành tóc “đem đầu” đến tiệm cắt tóc của ông;
bảo vệ trường sỹ quan cũng thương tìnhkhông đuổi. Sau một thời gian chạy
xe lam, Ngô Sĩ Nguyên được một anh bạn thanh lý cho một chiếc xe Gát 69
làm phương tiện vận chuyển hàng hóa cho cácchủ hàng trên tuyến Hà
Nội-Thường Tín. Nhằm giúp Nguyễn Văn Tập giải quyết khó khăn, Bưu điện
huyện Gia Lộc, Hải Dương, đã nhận anh vào làm bưu tá xã. Năm 2003, khi
xem một chương trình giao lưu với bốn chiến sĩ xe tăng 390, một trí thức
và là một nhà doanh nghiệp đã liên lạc với bốn chiến sĩ xe tăng 390,
viết thư cho từng anh, tự giới thiệu mình là chủ tịch hội đồng quản trị
một công ty, mời các anh lên thăm. Từ tháng 11-2003, Vũ Đăng Toàn được
công ty này mời về phó giám đốc một xí nghiệp sản xuất sơn giao thông và
ông Nguyễn Văn Tập cũng được mời về đây vừa làm thủ kho, vừa điều khiển
xe nâng hàng. Những “người hùng” kể về sự tiếp nhận của nhà doanh
nghiệp này như một sự hàm ơn.
* Phụ Lục 2: Tướng Big Minh sau 1975
* Phụ Lục 2: Tướng Big Minh sau 1975
Tướng Dương Văn Minh đã từng quyết định ở lại để “làm dân một quốc gia
độc lập”, nhưng cho dù được ông Võ Văn Kiệt đối xử trân trọng, cuối thập
niên 70 ông vẫn quyết định rời Việt Nam. Không chỉ do cuộc sống có
những khó khăn mà có lẽ những gì xảy ra lúc ấy ở miền Nam cũng khiến
lòng ông giằng xé. Tuy nhiên, ông tỏra hết sức cẩn trọng trong mọi ứng
xử. Trước khi sang định cư ở Pháp, ông Minh hỏi bà Năm Mè (Bùi Thị Mè),
“thứ trưởng” Bộ Y tế của “Cộng hòa Miền Nam” và là bạn từ thiếu thời của
ông: “Tổng Lãnh sự Pháp mời cơm tôi, theo chị tôi có nên nhận lời
không?”. Bà Mè đem chuyện hỏi ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt nói: “chị kêu
ảnh cứ gặp và chị nhớ đừng nói gì để anh ấy nghĩ là tôi dặn dò. Con
người như thế mình nói gì thêm với họ là không cần thiết”. Trong bữa cơm
với Lãnh sự Pháp, ông Tổng Lãnh sự hoan nghênh vợ chồng ông Minh đã
chọn Pháp làm nơi cư trú, ông nói: “Ngài Đại sứ gửi lời thăm và muốn tôi
nói với ông là Chính phủ Pháp sẽ lo hết chuyến đi của ông”. Ông Dương
Văn Minh đã đáp lại: “Tôi xin cám ơn, Chính phủ của tôi đã lo hết”. Trước
khi ông Minh đi Pháp, ông Kiệt kêu Thư ký Phạm Văn Hùng bố trí ở nhà bà
Năm Mè một “bữa cháo gà”, theo lời ông Hùng thì hai người đã nói chuyện
với nhau suốt nhiều giờ tâm đắc.
Năm 1984 khi dự Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Đức, sau đó đi thăm chính
thức Algeria, trên đường về, ông Võ Văn Kiệt có ghé qua Pháp thăm ông
Dương văn Minh, hai người đã trò chuyện khá lâu và theo ông Kiệt là rất
cởi mở. Trong những ngày ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh vẫn liên lạc với
bà Năm Mè. Trong một bức thư viết tay đề ngày 28-8-1988, ông tâm sự: “Ở
Montheny được cái yên tĩnh như ở làng bên mình nên tôi và “nhà tôi” rất
khỏe. Cũng nhờ không khí ở đồng nên sức khỏe tốt. Đau ốm thì có bác sĩ
và thuốc men đầy đủ, mỗi hai tháng đi khám sức khỏe một lần, về cả thử
máu (thử đủ chuyện). Tất cả đều được miễn phí nên được yên tâm phần nào.
Nhưng dẫu sao cũng nhớ nhà lắm chị Năm ơi! Nhớ bạn bè, nhớ bà con thân
thuộc. Nhớ người nầy, nhớ người kia, nhất là nhớ mẹ tôi năm nay đã già
mà tôi ở xa quá. Ở nhà còn hai đứa em trai và một đứa em gái nhưng tôi
thấy tụi nó không biết lo cho mẹ già đúng mức…” Trong thập niên 90, khi
tình hình trongnước đã khá dần lên, bản thân ông Võ Văn Kiệt cũng muốn
ông Dương Văn Minh trở về Việt Nam như một minh chứng cho “Đổi mới”. Năm
1994, khi ông Hồ NgọcNhuận đi Pháp, có đến thăm ông Minh và tất nhiên
là có chuyển lời mời của ông Võ Văn Kiệt.
Một bức thư của bà Năm Mè gửi cho ông Dương Văn Minh vào giữa thập niên
90 cho thấy việc xúc tiến đón ông trở lại Sài Gòn đã được làm khá tích
cực. Bức thư viết: “Anh Hai kính mến! Năm mới chúng tôi xin chúc Anh:
sức khỏe, hạnh phúc. Tôi có nhận 2 fax của cháu Đức. Chưa trả lời được
cho cháu vì tôi bị cấp cứu về tim. Được fax anh, tôi vội trả lời để anh
yên tâm. Tôi đã chuyển lời chúc tết của anh đến các anh em. Về chuyện
nhà của anh Hai đừng bận tâm, anh em đã lo. Lài đã xây xong nhà, qua tết
gia đình Lài sẽ dọn đi. Anh Hai cứ lo việc về, anh em dặn tôi viết thư
cho anh để anh yên tâm… Không có gì trở ngại, anh Hai đừng lo. Anh cứ
xúc tiến việc về. Mọi người đều kiểm tra nhà Lài. Bà Bảy cũng đã hứa.
Sáng nay anh em cho biết sau tết là gia đình Lài sẽ dọn về nhà mới.
Trong việc Anh sẽ không có gìkhó khăn, mọi người đều mong Anh. Kính chúc
anh sức khỏe và được đón anh một ngày rất gần đây. Các cháu rất mong
cậu Hai. Nhà cửa sữa xong rồi. Kính mến”. Kèm theo bức thư của bà Năm
Mè, Luật sư Trần Ngọc Liễng viết: “Kính anh Minh thân mến! Tôi hoàn toàn
đồng ý với chị Năm Mè về việc yên ổn cho Anh khi trở về đây. Riêng tôi
thấy có sự lưu ý giúp đỡ của các bạn của chị Năm thì trăm việc không có
sơ sẩy điểm nào. Điều cần thiết là vấn đề sức khỏe của anh và sự bình
yên về tâm trí thì đâu cũng là hạnh phúc cho cá nhân và cho mọi người
xung quanh. Kinh chào thân mến. Liễng”.
Trong bức thư gửi bà Năm Mè đề ngày 10-4-1996, ông Dương Văn Minh đã
rất nôn nóng. Ông viết: “Tôi có nhận được thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ
và tin tức ở quê hương là tôi muốn, phải chi có cánh bay về ngay thì vui
biết mấy. Nếu bữa nay tôi viết chữ không được ngay ngắn, khó đọc xin
chị thứ lỗi cho. Vì tôi vừa mổ xong mắt trái đến nay mỗi tuần phải đi
bác sĩ khám. Có lẽ đến tháng septembre (tháng 9) họ mới mổ con mắt thứ
nhì. Phải đợi lâu vì bên này họ quá kỹ và đông người mình phải đợi đến
phiên mình. Tôi rất nóng lòng, lúc nào cũng mong đâu đó cho mổ để về sớm
mà cứ bị kẹt chuyện này chuyện nọ hoài bực quá. Có điện nhờ chị thưa với
anh Sáu để anh Sáu được rõ lòng tôi. Viết đến đây, cay mắt quá nghĩ
chút sẽ viết tiếp nghe chị… Tội nghiệp Đức, lúc nào nó cũng cố gắng tìm
đủ cách để giúp tôi về nước đến với quê hương. Lúc nào nó cũng đặt hết
hy vọng nơi anh Sáu và chị. Nó tính là sẽ thành công. Theo những câu
chuyện của nó, tôi thấy nó và Đạo (con trai bà Năm Mè- HĐ) rất hợp ý
nhau. Thấy vậy tôi rất mừng. Tôi về được quê hương gặp lại mấy cháu chắc
là vui lắm. Hy vọng sớm gặp nhau. Thương nhớ”.
Về sau, Bà Năm Mè có sang Pháp để gặp ông Dương Văn Minh, không rõ câu
chuyện ra sao mà từ đó ông Minh bắt đầu suy nghĩ lại. Sau khi ông Minh
mất tại Mỹ (6-8-2001), Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, người đã đọc Điếu văn
trong Lễ tang Tổng thống Dương Văn Minh, có gửi email cho ông Hồ Ngọc
Nhuận. Email, đề ngày 29-1-2004, viết: “Có mấy chuyện tôi muốn nói để
anh rõ. Chuyện ông Tướng Dương Văn Minh: Sau khi bà Minh mất, ông Minh
rất buồn, nhất là vì hai con dâu đối đãi với ông Minh không được đàng
hoàng lắm. Trước tình trạng đó, ông Minh muốn về Việt Nam sinh sống, ông
có hỏi ý tôi và tôi đã OK, chỉ cho ý kiến là về ViệtNam không nên ở
“Hồng Thập Tự” (Dinh Hoa Lan) mà nên lên Thủ Đức ở vì Thủ Đức là nhà của
ông trong khi nhà đường Hồng Thập Tự là nhà của Nhà nước. Ông cũng
không nên có một hoạt động gì cả (Tôi cảnh giác ông Minh điều này vì
thấy ở Việt Nam có nhiều phe quá, chưa chi đã có phe chửi bới ông, họ
nói Nhà nước cho ông về vì xưa kia ông đã được Cách mạng móc nối…Công
việc của ông Minh càng phức tạp hơn khi Đức (con trai của ông) đi về
Việt Nam vận động cái gì đó và có gặp ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt có gửi
cho ông Minh một cái thư mời ông Minh về, lời lẽ rất dễ thương (mà ông
Minh có gửi cho tôi bản sao). Trong thời gian đó lại có bà Mè, chị vợ
của anh Lý Chánh Trung hay tới lui thăm viếng, tạo một bầu không khí
cách mạng náo nhiệt chung quanh ông Minh khiến nhiều người thân với ông
(trong đó có mấy người bạn ông và chị Mai con gái lớn của ông) không
bằng lòng. Tới một lúc nào đó, ông Minh thấy mình không chịu nổi cái ồn
ào ở Paris nên ông đi Mỹ ở với chị Mai. Sau vài lần đi về như thế, ông
thấy có thể ở yên bên Mỹ nên ông quyết định ở luôn”.
Cũng năm 2004, khi xem lá thư nói trên của Dân biểu Nguyễn Hữu Chung,
ông Võ Văn Kiệt cho biết là cá nhân ông Đỗ Mười cũng cho người tiếp xúc,
với ý định mời ông Dương Văn Minh về tham gia Mặt trận Tổ quốc. Theo
ông Hồ Ngọc Nhuận, vị sứ giả mà ông Đỗ Mười phái đi gặp ông Dương Văn
Minh là cựu Chủ tịch Thượng viện, bà Lê Phước Đại. Ông Nguyễn Hữu Chung
tâm sự tiếp với ông Hồ Ngọc Nhuận trong email đề ngày 29-1-2004: “Tôi có
thể nói rằng nếu tôi khuyên ông Minh về Việt Nam thì ông đã về vì rất
nhiều lần ông hỏi ý, và còn có ý rủ tôi cùng về. Nhưng tôi cảm thấy có
một sự bất ổn nào đó nên đã không khuyên ông về. Tội nghiệp ông đã phải
sống những năm chót trong sự cô đơn, về Việt Nam sống thì chắc vui hơn.
Tôi hơi mệt nên xin phép anh tạm ngưng bút. Hẹn thư sau. Về bài Điếu văn
hôm đám ma ông Minh, tôi có nhờ anh Trần Văn Sơn chuyển cho anh. Hy
vọng anh đã nhận được. Chung”. Đây chính là bức thư cuối cùng của ông
Nguyễn Hữu Chung gửi cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Ông Chung sau đó đã mất ở
Canada vì bệnh ung thư.
Theo ông Nguyễn Hữu Chung, ông Hồ Ngọc Nhuận và những người thân khác,
Tướng Dương Văn Minh đã lặng lẽ ra đi mà không hề để lại một dòng hồi
ký. Ông Minh có lẽ đã khôn ngoan quyết định cứ để cho người đời bàn cãi
về việc ai đã ra lệnh giết hai anh em nhà Ngô Đình Diệm; về việc vì sao
lại chọn cách đi vào lịch sử như một kẻ đầu hàng.
* Sách Tham Khảo
1. Archimedes L. A. Patti, Why Vietnam, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007.
2. Ba mươi năm Công giáo Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1975 – 2005,
Nguyệt san diễn đàn giáo dân và phong trào giáo dân Việt Nam hải ngoại
cơ sở Đức quốc, 2005.
3. Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2001, Nền Kinh tế trước ngã ba đường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
4. Ban Tuyên giáo Thành ủy – Cục Chính trị quân khu 7 Viện nghiên cứu
xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
5. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Kỷ yếu Thủ tướng Phan Văn
Khải làm việc với Ban nghiên cứu và tổ kinh tế đối ngoại của Thủ tướng
Chính phủ, Bản thảo ngày 13 tháng 2 năm 2004.
6. Bản thảo Hồi ký Ngô Công Đức 1936 – 2007.
7. Bộ Ngoại giao, Phạm Văn Đồng và Ngoại giao Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006.
8. Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử, cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000.
9. Carl Bernstein, Hillary Rodham Clinton người đàn bà quyền lực, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2008.
10. Chính Đạo Việt Nam niên biểu 1939 – 1975, Văn hóa xuất bản và phát hành, 2000.
11. Chương trình Khoa học Công nghệ cấp nhà nước KX.01, “Quá trình phát
triển nhận thức của Đảng về con đường XHCN qua cuộc đổi mới”, Bản thảo
năm 1994.
12. Chuyện kể về chị Ba Thi nữ anh hùng lao động, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long, 1992.
13. Chuyện thời bao cấp tập 1, Nhà xuất bản Thông tấn, 2011.
14. Christopher E. Goscha, Courting Diplomatic Disaster? The Difficult
Intergration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement
(1945-1950), “Vietnam Studies” Conference April 6, 2006, UC Berkeley.
15. Duyên Anh, Nhà tù hồi ký, Nhà xuất bản Xuân Thu, 1987.
16. Dương Đức Dũng, Nhà doanh nghiệp cần biết Những gương mặt tỷ phú
Sài Gòn trước năm 1975, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
17. Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời chiến sĩ hồi ký, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2009.
18. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1976.
19. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh trong Mùa Xuân Toàn Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000.
20. Đại Việt Sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 2003.
21. Đào Xuân Sâm, Viết theo dòng đổi mới tư duy kinh tế, Nhà xuất bản Thanh niên, 2000.
22. David G. Marr, Vietnam 1945, The Regents of the University of California, 1995.
23. Đặng Phong, “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nhà xuất bản Tri thức, 2009.
24. Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
25. Egon Krenz, Mùa thu Đức 1989, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010.
26. Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China, the Belknap Press of Harvard University Press, 2011.
27. Giáo giới trong đấu tranh đô thị qua hai thời kỳ Nam Bộ kháng chiến (1945 – 1975), Bản thảo tháng 6 năm 2004.
28. GS. Trần Nhâm, Trường Chinh – Một tư suy sáng tạo, một tài năng kiệt xuất, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009.
29. Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 1996.
30. Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003.
31. Henry Kissinger, Những năm bão táp (Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2003.
32. Hoàng Dũng, Chiến tranh Đông Dương III, Văn Nghệ xuất bản, 2000.
33. Hoàng thân Norodom Shihanouk cùng Bernard Kriser, Hồi ký Shihanouk, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1999.
34. Hoàng Minh Thắng, Nơi ấy tôi đã sống, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003.
35. Hoàng Ngọc Thành và Trần Thị Nhân Đức, Tài liệu Sử: Những ngày cuối cùng của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
36. Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ.
37. Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đồng chí Trường
Chinh – Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Lý
luận Chính trị, 2007.
38. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo Đời hay Chuyện về những người tù của tôi.
39. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo Tình bạn hay Những là thư tâm tình về tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975.
40. Hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam 1945 – 1954, Xuân Giáp Thìn 1964.
41. Hồi ký Trần Văn Giàu 1940 – 1945.
42. Hồi ức Mai Chí Thọ, tập 2 Theo bước chân lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 2001.
43. Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương.
44. Hội thảo Khoa học Lịch sử phát triển Kinh vĩnh tế, Sở Khoa học Công nghệ môi trường An Giang, 1999.
45. Huỳnh Bá Thành, Vụ án Hồ Con Rùa, Phụ bản báo Tuổi trẻ, 1983.
46. Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nhà xuất bản Sự Thật, 1985.
47. Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân văn – giai phẩm từ góc nhìn Một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc Cách mạng văn học không thành.
48. Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945 – 1995, Tiên Rồng xuất bản, 2004.
49. Lịch sử Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Sài Gòn – Gia
Định và các thành thị Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
(1928 – 1975), Bản thảo tháng 9 năm 2004.
50. Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh, Phong trào đấu tranh của công nhân Nam Bộ 1945 – 1975, Bản thảo tháng 6 năm 2004.
51. Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2002.
52. Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Thông tấn xã Việt Nam, 2008.
53. My life Bill Clinton, William Jefferson Clinton, 2004.
54. Ngã ba Đồng Lộc – Ngã ba anh hùng, Bản thảo năm 1971.
55. Nghiêm Xuân Hồng, Cách mạng và hành động (1789 – 1917 – 1933 – 1949), Quan điểm xuất bản.
56. Ngô Điền, Campuchia nhìn lại và suy nghĩ, Bản thảo ngày 30 tháng 7 năm 1992.
57. Ngô Thảo, Dĩ vãng phía trước, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2011.
58. Nhớ về anh Lê Đức Thọ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000.
59. Nhà Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003.
60. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận Văn hóa – Tư tưởng, Nhà xuất bản Văn hóa, 1980.
61. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 1.
62. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2.
63. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2.
64. Nguyễn Đình Đầu, Tìm hiểu Thềm lục địa – biển Đông hải đảo Việt Nam, Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
65. Nguyễn Duy Oanh, Chân dung Phan Thanh Giản, Tủ sách Sử học Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974.
66. Nguyễn Khánh, Phong cách Võ Văn Kiệt, Bản thảo ngày 20 tháng 10 năm 2009.
67. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng xuất bản, 1970.
68. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Chuyện đời Đại sứ, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ, 2012.
69. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trở lại xứ Ka Đô, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2011.
70. Nguyễn Nhật Lâm, Trở lại, Nhà xuất bản Văn học, 2012.
71. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nam Sơn, 1963.
72. Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nhà xuất bản Sự Thật, 1991.
73. Nguyễn Văn Linh, Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Nhà xuất bản Sự thật, 1985.
74. Nguyễn Văn Linh, Hành trình cùng lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 1999.
75. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc hội.
76. Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiêu, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2010.
77. Nguyễn Xuân Oánh, Đổi mới vài nét lớn của một chính sách kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
78. Nguyễn Văn Xương, Lược dịch và chú giải Sắc lệnh điền thổ 21 tháng 7 năm 1925, in lần thứ nhì, 1971.
79. Peter Braestrup, Big Story, Presidio, 1977.
80. PGS Đào Công Tiến, Nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh, Giáo dục và đào tạo – mấy cảm nhận và đề xuất, Bản thảo tháng 6
năm 2009 81. PGS Đào Công Tiến, Với các Dự thảo văn kiện trình Đại hội
Đảng XI – Mấy trao đổi, đóng góp, Bản thảo năm 2005.
82. Phạm Khắc Hòe, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2007.
83. Phạm Sơn Khai, Hồi ký.
84. Phan Lạc Phúc, Bè bạn gần xa, Nhà xuất bản Văn nghệ, 2000.
85. Philip Short, Polpot, John Murray, 2004.
86. Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài gòn – Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 -1975), Bản thảo tháng 5 năm 2004.
87. Quốc triều Hình luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995.
88. Stanley Karnow, Vietnam A History the first complete account of
Vietnam at War, WGBH Educational Foundation and Stanley Karnow, 1983.
89. Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years 1919-1941, University of California Press, 2002.
90. Tạ Chí Đại Trường, Sử Việt đọc vài quyển, Nhà xuất bản Văn Mới, 2004.
91. Tạ Chí Đại Trường, Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861 – 1945), Nhà xuất bản Tri thức, 2011.
92. Tạ Chí Đại Trường, Một khoảnh Việt Nam Cộng hòa nối dài.
93. TGM F. X Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Công đoàn Đức Mẹ La Vang ấn hành, 2000.
94. Thành ủy - Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện lịch sử Quân
sự Việt Nam, Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản
Quân đội Nhân dân, 1998.
95. Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy, Biên Niên sự kiện (1986 – 1995), Bản thảo năm 2000.
96. Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2002.
97. Thượng tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường của “B2 – Thành đồng”
tập V Kết thúc chiến tranh 30 năm, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, 1982.
98. Trần Công Tấn, Nguyễn Chí Thanh sáng trong như ngọc một con người, Nhà xuất bản Văn học, 2009.
99. Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, Bản thảo năm 2003.
100.Trần Quốc Hương, Những năm tháng làm việc bên anh Trường Chinh, Bản thảo tháng 5 năm 2002.
101.Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn (trích).
102.Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2002.
103.Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nhà xuất bản Vĩnh Sơn, 1969.
104.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008.
105.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008.
106.Tướng Nguyễn Văn Vịnh – Như anh còn sống, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
107.Trần Huy Chương, Campuchia Hậu UNTAC, Hồi ký – bản thảo 2002.
108.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Đề án Quy hoạch, phát triển
hạ tầng giao thông đô thị, khắc phục tình trang ùn tắc giao thông, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, Bản thảo tháng 11 năm 2007.
109.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện kinh tế, Báo cáo đề tài
nghiên cứu khoa học “Kinh tế vỉa hè” tại thành phố Hồ Chí Minh: Hiện
trạng và các giải pháp, Bản thảo tháng 1 năm 2005.
110.Văn phòng Quốc hội, Quốc hội Việt Nam 60 năm hình thành và phát triển, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006.
111.Văn kiện Đảng toàn tập 1 (1924 – 1930), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1998.
112.Văn kiện Đảng toàn tập tập 36 (1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004.
113.Văn phòng Chính phủ, Hội thảo Khoa học Tuyển tập các báo cáo toàn văn, Hà Nội tháng 9 năm 2000.
114.Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, Bản thảo tháng 4 năm 2005.
115.Viện nghiên cứu Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Đô thị hóa ở Sài Gòn –
thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn Lịch sử - Văn hóa, Nhà xuất bản Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
116.Viện nghiên cứu Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Khoa học Xã hội thành
phố Hồ Chí Minh Những vấn đề nghiên cứu, Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, 2009.
117.Việt Nam cộng đồng người Việt tị nạn trên thế giới 1975 – 2004, Nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, 2004.
118.Vĩnh Sính, Nhật Bản cận đại, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh Khoa Sử trường Đại học Sư Phạm, 1991.
119.Võ Nhơn Trí, Việt Nam cần đổi mới thật sự, Đông Á xuất bản, 2003.
120.Võ Văn Kiệt, Quyết thắng trên mặt trận Văn hóa và Tư tưởng, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
121.Vũ Đình Hòe, Hồi ký Thanh Nghị tập 1, Nhà xuất bản Văn học, 1997.
122.Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, 2008.
123.Vũ Mão, Ngọn cờ tiên phong, Bản thảo năm 2005.
124.Vũ Quốc Thông, Pháp Chế Sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài Gòn, 1971.
125.Zhao Ziyang, Prisoner of the State, Simon & Schuster, 2009.
126.Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 – 1885, Nhà xuất bản Tri thức, 2011.
No comments:
Post a Comment