Chiến tranh Việt Nam kết thúc ngày
30-4-1975. Cho đến nay, cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tự hào họ là bên
thắng cuộc. Nhân ngày 30 tháng 4 sắp đến có lẽ nên thử trở lại vấn đề
ai là bên thắng cuộc trong cuộc chiến 1960-1975?
I. Thế nào là bên Thắng cuộc?
Trước hết cần phải xác định thế nào là thắng cuộc thì mới có thể biết
bên nào thắng cuộc? Thông thường, bên thắng cuộc là bên thực hiện được
mục đích do chính bản thân đặt ra trước khi tham chiến.
Những bên tham chiến vừa qua là: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay
Bắc Việt Nam (BVN), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN),
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam (NVN). Ngoài ra, phía BVN có
Liên Xô và Trung Quốc viện trợ và gởi quân làm cố vấn và bảo vệ BVN.
Phía NVN có Hoa Kỳ viện trợ và gởi quân tham chiến.
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và MTDTGPMN tuy hai mà một, do đảng Lao Động
(LĐ) điều khiển. Tại Hà Nội, từ 5-9 đến 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng
LĐ lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”, đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa và “giải phóng hoàn toàn miền Nam...” (1).
Sau Đại hội nầy, đảng LĐ thành lập MTDTGPMNVN, ra mắt tại Hà Nội ngày
12-12-1960 và ra mắt tại xã Tân Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
(vùng chiến khu Dương Minh Châu) ngày 20-12-1960.
Trong chế độ dân chủ, quyền tuyên chiến, quyền quyết định chiến tranh,
một vấn đề tối quan trọng, liên hệ đến vận mạng đất nước, thuộc về quốc
hội, đại diện toàn dân quyết định. Ở BVN, quyết định chiến tranh và
tuyên chiến, lại do đảng LĐ quyết định, chứ không do quốc hội, chứng tỏ
rõ ràng rằng đảng LĐ nắm quyền tuyệt đối ở BVN, và nhà cầm quyền Hà Nội
chỉ là bù nhìn của đảng LĐ mà thôi. Thế là BVN khởi binh đánh NVN.
Tuy viện cớ thống nhất đất nước, nhưng thực sự đảng LĐ quyết tâm đánh
chiếm miền Nam vừa vì tham vọng bành trướng cố hữu của CS, vừa làm tay
sai quốc tế cho Liên Xô và Trung Quốc. Lê Duẩn bí thư thứ nhất đảng LĐ,
đã từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (2)
Liên Xô (LX) và Trung Quốc (TQ) đều mang đặc tính chung của các nước CS
là luôn luôn chủ trương bành trướng, bá quyền. Tại LX, ngày 15-10-1964,
Leonid Brezhnev đảo chánh và lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay
Nikita Khrushchev. Brezhnev, tăng cường viện trợ BVN, gởi quân và chuyên
viên sang giúp BVN. Đây là khởi đầu chủ trương can thiệp mới của Liên
Xô, mà về sau các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev, theo đó. “Nguyên
lý Xô viết về luật quốc tế khẳng định quyền của Cộng đồng Cộng sản can
thiệp bất cứ ở đâu mà các lực lượng nội tại và ngoại lai thù địch đối
với chủ nghĩa cộng sản tìm cách biến đổi sự phát triển một nước theo chủ
nghĩa xã hội hướng về chủ nghĩa tư bản, một tình thế được xem có tính
cách đe dọa đối với tất cả các nước cộng sản.” (3)
Trung Quốc ở sát ngay phía bắc của Việt Nam. Từ năm 1950, TQ giúp CSVN
vừa vì sự cầu viện của CSVN và của Hồ Chí Minh, vừa vì lợi ích an ninh
bản địa TQ. Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn nhau.”
Thật vậy, từ năm 1956, mối bang giao TQ - LX rạn nứt. Liên Xô bao vây TQ
ở phía bắc và phía tây. Phía tây nam, Ấn Độ chận TQ. Phía đông (biển
Thái Bình) là hàng rào ba nước đồng minh của Hoa Kỳ và ký hiệp ước phòng
thủ song phương với Hoa Kỳ là Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan). Nếu để cho Hoa Kỳ bao vây luôn BVN, thì TQ bị chận hết
các đường ra biển. Vì vậy, TQ giúp BVN chẳng những do ý thức hệ CS và
sự cầu viện của BVN, nhưng đồng thời cũng do TQ bị bao vây các mặt, trừ
một phần phía nam TQ là BVN.
Năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam không đồng ý chia hai đất nước,
nhưng nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Genève (20-7-1954). Thủ tướng Ngô
Đình Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa năm 1955. Việt Nam Cộng Hòa
theo chế độ tự do dân chủ, dầu hạn chế vì chiến tranh, duy trì nền văn
hóa dân tộc cổ truyền, hệ thống giáo dục khai phóng, cởi mở, quyết tâm
chiến đấu để bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại cuộc xâm lăng của
BVN. Tuy nhiên, vì yếu sức, VNCH phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Sau thế chiến thứ hai, từ năm 1946, trên thế giới bắt đầu xảy ra chiến
tranh lạnh giữa hai khối tư bản và CS. Hai khối tư bản và CS tranh chấp
quyết liệt trên toàn cầu. Tuy vậy Hoa Kỳ và Liên Xô tránh đụng độ trực
tiếp vì cả hai đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử
xảy ra thì cả hai đều thiệt hại. Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng
không đánh nhau nầy, gọi là chiến tranh lạnh.
Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối CS dùng chiêu bài giải phóng dân
tộc để tuyên truyền và bành trướng thế lực. Hoa Kỳ và khối tư bản cho
rằng khi một nước bị CS chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị
mất vào tay CS, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ
domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước
Tây phương, nhất là Hoa Kỳ.
Vì vậy, khi TQ (ngày 18-1-1950) rồi LX (ngày 30-1-1950) thừa nhận nhà
nước VNDCCH do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, thì Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950) và
Anh (ngày 7-2-1950) thừa nhận chính phủ QGVN do Bảo Đại làm quốc trưởng.
Từ đó, Hoa Kỳ giúp Pháp và QGVN chống lại CSVN.
Sau hiệp định Genève, Việt Nam bị chia hai. Để ngăn chận làn sóng CS ở
Đông Á, nhất là ngăn chận Trung Quốc xuống phía nam, Hoa Kỳ vận động ký
kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective
Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra
đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization,
SEATO), gồm các nước Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây
Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái
Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ).
Trong phụ bản (protocol) của hiệp ước SEATO, ba nước Cambodia (Cao
Miên), Laos (Lào) và NVN được liệt kê trong vùng lãnh thổ được SEATO bảo
vệ. Hoa Kỳ dựa vào phụ bản nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với
các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á, và giúp xây dựng NVN thành một “tiền
đồn chống cộng”. Lúc đầu, Hoa Kỳ chỉ gởi cố vấn sang giúp NVN. Từ năm
1965, Hoa Kỳ đưa quân trực tiếp tham chiến.
Tuy nhiên, vào cuối thập niên 60, tình hình thay đổi.
1) Giới phản chiến Hoa Kỳ hoạt động mạnh, yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam.
2) Trong khối CS, cuộc tranh chấp LX-TQ càng ngày càng trầm trọng. Chính
phủ Hoa Kỳ liền thay đổi chính sách ngoại giao toàn cầu. Khi lên cầm
quyền năm 1969, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon quyết định rút quân ra
khỏi NVN bằng kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh nhằm yên lòng dân chúng
Hoa Kỳ; đồng thời Nixon thay đổi chính sách ngoại giao đối với khối CS,
hòa hoãn với Trung Quốc và Liên Xô, đào sâu sự chia rẽ giữa LX và TQ.
Richard Nixon sang thăm TQ từ 21-2 đến 28-2-1972, và ký kết với thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bản Thông cáo chung Thượng Hải (Shanghai)
ngày 28-2-1972, làm nền tảng cho chính sách của cả hai bên về Đông Á cho
đến ngày nay. Tiếp theo, Richard Nixon thăm Liên Xô từ 22 đến
30-5-1972, cùng Leonid Brezhnev ký kết hiệp ước SALT (Strategic Arms
Limitation Treaty = Hiệp ước giới hạn võ khí chiến lược) ngày 26-5-1972,
và hứa hẹn sẽ cho Liên Xô quy chế tối huệ quốc (most favored nation).
Sau hai cuộc viếng thăm nầy, Hoa Kỳ ký hiệp định Paris ngày 27-1-1973,
đơn phương rút quân khỏi Việt Nam. Quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho
VNCH. Quân đội VNCH thiếu nhiên liệu, thiếu phương tiện chiến đấu, đành
buông súng; VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975.
II. Ai là bên Thắng cuộc?
Dựa trên mục đích của các bên tham chiến và diễn tiến tình hình chiến
tranh Việt Nam được sơ lược trên đây, vấn đề đặt ra là ai là bên thắng
cuộc trong cuộc chiến 1960-1975?
Trước hết và rõ ràng nhất, sau cuộc chiến vừa qua, người CS thường
huyênh hoang tự hào là họ là kẻ thắng cuộc. Quả thật, ngày 30-4-1975,
VNCH sụp đổ, VNDCCH chiếm được NVN, thực hiện mục tiêu “giải phóng” miền
Nam đã được đề ra trong Đại hội III đảng LĐ ở Hà Nội từ ngày 5 đến ngày
10-9-1960. Tuy nhiên, sau khi CS làm chủ toàn bộ đất nước, CS có thật
sự là bên thắng cuộc hay không?
Ngay tức khắc, sau khi CS chiếm NVN, khoảng 150.000 người di tản ra nước
ngoài. Tiếp đến là phong trào vượt biên. Dầu CS kiểm soát gắt gao,
khoảng trên 1.500.000 bỏ nước ra đi bằng tất cả các phương tiện, “cây cột đèn cũng muốn ra đi”,
trong đó khoảng 500.000 người bỏ mình ở biển Đông. Biển Đông trở thành
nghĩa địa biển lớn nhất thế giới. Ở trong nước, nhiều phong trào nổi lên
chống đối CS đều bị đàn áp. Như thế, CS chiến thắng bằng súng ống,
chiếm được đất đai, nhưng hoàn toàn thất bại về nhân tâm, không chiếm
được lòng người, không thống nhất được lòng dân.
Những người ra đi bị ghép tội “phản động”, chạy theo bơ sữa “đế quốc Mỹ”
năm 1975, sau đó bỗng chốc trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, “Việt kiều
yêu nước”. Nhà nước CS kêu gọi hòa giải hòa hợp với “khúc ruột ngàn
dặm”, nhưng chỉ có một nhóm người đếm được trên đầu ngón tay, tìm kiếm
chút hư danh, về nước nói là “đóng góp xây dựng đất nước”, trong khi đại
đa số người Việt hải ngoại chẳng có nhu cầu hòa giải hòa hợp với CS
toàn trị. Về Việt Nam du hí thì có, nhưng về Việt Nam để giúp chế độ CS
thì không. Như thế, CSVN có phải là “bên thắng cuộc” hay không?
Phải vay nợ súng ống thì mới có súng ống chiến đấu. Cộng sản vay nợ LX
và TQ. Vay nợ thì phải trả nợ. Sau năm 1975, CSVN trả nợ LX, giao hải
cảng Cam Ranh cho LX và muốn chạy theo LX để xù nợ TQ, liền bị TQ dạy
cho một bài học năm 1979, làm 6 tỉnh biên giới tan hoang. Năm 1990, khối
Đông Âu sụp đổ, CSVN quay qua đầu phục TQ ở Thành Đô (TQ), đưa đến các
hiệp ước 1999 và 2000, mất đất mất biển. Sau đó còn nhiều chuyện tiếp
theo, thuê rừng, khai thác bauxite, tấn công ngư dân...
Sau năm 1975, một điểm nổi bật là hầu hết người BVN, từ cán bộ, bộ đội,
đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ
hầu như người Nam không học theo người Bắc. Người Bắc (1975) thích ăn
bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà CS gọi
là "nhạc vàng", đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm
hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người
Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng LĐ (năm 1976
cải danh thành đảng CS) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận
Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như toàn thề BVN cũng
được Nam hóa, trang bị bằng sản phẩm của NVN, nghĩa là được đồng hóa
theo NVN. Cho đến nay, CSVN muốn trở lại con đường của NVN, duy chỉ muốn
bảo vệ quyền lực đảng CSVN. Ngang đây, cũng tạm đủ để cho thấy CSVN có
phải là kẻ thắng cuộc hay không?
Về phần VNCH, ngày 30-4-1975, quân đội VNCH bị thiếu tiếp liệu, súng
ống, đành phải ngưng chiến đấu. Chính phủ VNCH sụp đổ. Cộng sản đặt ách
thống trị lên NVN. Tuy nhiên, dân chúng còn bị kẹt lại ở trong nước, vẫn
quy hướng về chính thể VNCH, vẫn mong muốn hít thở không khí tự do dân
chủ của VNCH, luôn luôn tưởng nhớ VNCH, nghĩa là linh hồn VNCH vẫn còn
đó. Vì bị đàn áp, dân chúng đành lặng thinh, nhưng ai ai cũng mong sẽ có
ngày giải trừ CS, tái xây dựng chế độ Cộng hòa. Vậy làm thế nào giải
thích hiện tượng nầy? Phải chăng VNCH chỉ tạm thời thất bại năm 1975
nhưng vẫn chưa bị tiêu diệt. Anh linh VNCH còn đó. Ai cũng tin sẽ có
ngày VNCH phục sinh. Thời gian sẽ trả lời.
Về các nước ngoài: Hoa Kỳ mang tiếng là đã bị CSVN đánh cho “Mỹ cút”,
nhưng thật sự Mỹ không cút, Mỹ cũng chẳng “tháo chạy” (như tựa đề quyển
sách Khi đồng minh tháo chạy), mà phải nói cho thật đúng diễn tiến lịch
sử là Mỹ tức Hoa Kỳ ngưng, không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì thay
đổi chiến lược toàn cầu của họ, và Hoa Kỳ đã thành công trong các mục
tiêu chiến lược của họ: Rút quân khỏi Việt Nam, giải quyết chuyện nội bộ
Hoa Kỳ, bắt tay với Trung Quốc, và cuối cùng chiến thắng cuộc chiến
tranh lạnh với LX khi LX sụp đổ năm 1991. Riêng nội bộ Hoa Kỳ, nhân dân
Hoa Kỳ mất gần 60,000 thanh niên ưu tú trong chiến tranh Việt Nam. Đổi
lại Hoa Kỳ thí nghiệm nhiều loại võ khí tối tân tại Việt Nam, kể cả
những chuyến oanh kích thử nghiệm đầu tiên của B52. Tư bản kỹ nghệ võ
khí Hoa Kỳ thu lợi như thế nào thì không được thống kê đầy đủ.
Ngoài ra, một số đồng minh của Hoa Kỳ cũng hưởng lợi: Nhật Bản phục hưng
nhanh chóng nền kỹ nghệ sau thế thiến thứ hai nhờ cung cấp hàng tiêu
dùng cho Việt Nam, nhất là cho quân nhân Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam.
Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân nhờ VNCH làm lá chắn ngăn chận làn sóng
CS và các nước nầy kịp phục hồi kinh tế và an ninh để chống lại sự bành
trướng của TQ.
Trung Quốc thu lợi nhiều mặt. Trước hết, thông qua chiến tranh Việt Nam,
TQ bắt tay được với Mỹ năm 1972, được Mỹ thừa nhận chỉ có một nước TQ,
công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ TQ, công nhận không kiếm cách
làm chủ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và chống đối bất kỳ nước nào hay
nhóm nước nào muốn làm bá chủ vùng nầy, ý ám chỉ Liên Xô. Đó là những
điều TQ mong muốn nhất.
Về biển Đông, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận Hoàng
Sa và Trường Sa là của TQ để TQ viện trợ cho BVN đáng NVN. Vì vậy năm
1974, nhân cơ hội VNCH bị Mỹ bỏ rơi, bị BVN tấn công dồn dập, TQ ra tay
cướp đoạt Hoàng Sa thuộc lãnh thổ VNCH. Sau năm 1975, khi CSVN chạy theo
LX, muốn trốn nợ TQ. Trung Quốc liền đánh 6 tỉnh biên giới năm 1979,
dạy cho CSVN một bài học. Vì vậy, khi Đông Âu lung lay, CSVN qua Thành
Đô xin đầu hàng TQ năm 1990, đưa đến hai hiệp ước 1999 và 2000. Trung
Quốc chiếm đất, chiếm biển của Việt Nam. Như vậy, tuy không được tiếng
là bên thắng cuộc, nhưng TQ là kẻ thu hoạch nhiều nhất sau chiến tranh
Việt Nam.
Liên Xô viện trợ cho BVN không kém gì TQ. Đầu năm 1975, viện trợ của LX
cho BVN để BVN đánh NVN tăng gấp bốn lần so với trước. (Henry Kissinger,
Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.) Sau
năm 1975, Việt Nam gia nhập khối COMECON (Council for Mutual Economic
Assistance tức Hội đồng Tương trợ Kinh tế) ngày 27-6-1978. Ngày
3-11-1978, Lê Duẫn, tổng bí thư đảng CSVN, sang Liên Xô và ký với Leonid
Brezhnev, tổng bí thư đảng CSLX,Hiệp ước Hai mươi lăm năm Hỗ tương và
Phòng thủ giữa hai nước. Từ sau hiệp ước nầy, hải quân Liên Xô bắt đầu
tiến vào sử dụng hải cảng Cam Ranh làm căn cứ tại Viễn đông.
Có hai ảnh hưởng gián tiếp đáng ghi nhận sau chiến tranh Việt Nam:
1) Khi rời bỏ Việt Nam năm 1975, Hoa Kỳ chủ trương để lại nguyên vẹn và
không phá hủy tất cả máy móc thiết bị mà Hoa Kỳ giao lại cho VNCH. Cộng
sản rất mừng tiếp nhận được những chiến lợi phẩm nầy. Sau ngày
30-4-1975, đại diện các nước CS trên thế đến thăm viếng NVN, chúc mừng
sự thành công của CSVN, rất ngạc nhiên về những chiến lợi phẩm nầy, sự
tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật, y khoa của Hoa Kỳ so với Liên Xô
mà lâu nay Liên Xô bưng bít, giấu kín. Nhờ đó, các nước Đông Âu mới
biết rõ sự cách biệt giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, khiến họ giảm tin tưởng đối
với đàn anh Liên Xô và bắt đầu nhìn về phía Hoa Kỳ, nhập cảng sản phẩm
của Hoa Kỳ, tạo tâm lý thuận lợi cho sự sụp đổ của khối CS.
2) Làn sóng vượt biên vĩ đại của người Việt Nam chạy ra nước ngoài tỵ
nạn CS sau năm 1975, khiến cho lương tâm thế giới, nhất là các nước Tây
Âu, lâu nay thiên tả là một “thời trang”, bừng tỉnh về giấc mộng “xã hội
chủ nghĩa”, ghê sợ và chán ghét các chế độ CS. Các nước Tây Âu quay qua
giúp đỡ các phong trào kháng chiến ở các nước CS Đông Âu, góp phần dần
dần đưa đến sự sụp đổ của hệ thống CS Đông Âu.
III. Kết luận
Đặt kết quả chiến tranh Việt Nam trong chiều rộng của không gian và
trong chiều dài của thời gian, mà vẫn khó có thể thẩm định ai là bên
thắng cuộc. Tuy nhiên chắc chắn có hai điều rất rõ ràng:
1) Toàn dân Việt Nam ở cả Bắc và Nam Việt Nam đều thua cuộc về nhiều
mặt. Ngoài thiệt hại vật chất, nhà cửa, ruộng vườn, hàng triệu gia đình
tan nát vì chủ nghĩa CS, hàng triệu người tử vong vì chiến tranh do CS
gây ra, nền văn hóa và đạo đức suy đồi trầm trọng.
2) Thủ phạm của tấn thảm kịch nầy chính là kẻ đã du nhập chủ nghĩa CS
ngoại lai bạo tàn, chính là kẻ đã rước voi về giày mồ tổ tiên, chính là
kẻ chủ trương gây chiến để phục vụ quyền lợi ngoại bang và chỉ làm lợi
cho ngoại bang dù là CS hay tư bản. Chúng là những tên phản quốc dâng
đất, dâng đảo, dâng biển cho kẻ thù phương bắc. Đám nầy không ai khác
hơn là tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN. Sau năm 1975, chúng dần dần lộ diện.
Chúng mất trắng tất cả vốn liếng chính trị mà chúng đã dày công lừa
phỉnh toàn dân Việt Nam và thế giới. Chúng không phải là bên thắng cuộc.
Chúng chẳng những trở thành kẻ thua cuộc, mà chúng còn là tội đồ dân
tộc. Lịch sử sẽ ghi tội, hậu thế sẽ đời đời lên án.
Chú thích:
(1) Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 2001, tt. 154-155.
(2) Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr.
422 và tiết lộ của Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000,
trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.)
(3) The New Lexicon Webster's Encyclopedic Dictionary of English
Language, Nxb. Lexicon, New York, 1988, mục "Brezhnev Doctrine".
(4) La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong
Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam
chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung
Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí
Truyền Thông (in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.)
Trần Gia Phụng (Blog DanLamBao)
No comments:
Post a Comment