Những người Việt Nam vượt biển được đưa vào bờ biển của Malaysia năm 1978
Biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc Việt
Nam. Mỗi người dân Việt sống trong giai đoạn này, ít nhiều đều bị cuốn
vào vòng xoáy của thời cuộc, của những biến đổi đau thương.
Cũng từ đây, lịch sử hiện đại Việt Nam phải ghi nhận thêm một sự kiện
đau đớn của dân tộc khi hàng triệu người dân chấp nhận làm thân phận
của kẻ ly hương, rứt ruột rời xa gia đình, xa xóm làng, xa tất cả những
gì thân quen nhất để tìm đường đến đất tự do.
Chuyến ra đi của mỗi người là một câu chuyện rất riêng, không ai
giống ai, nhưng tất cả đều là một hành trình không quên trong cuộc đời
của họ, dù thời gian hơn 30 năm đã trôi qua.
Tháng 4 định mệnh
Đào Nguyễn, hiện là một chuyên viên tài chánh đang sống tại Houston
thuộc tiểu bang Texas, rời Việt Nam vài ngày 29 Tháng Tư năm 1975, khi
vừa tròn 10 tuổi.
Theo Đào, chuyến đi định mệnh của cô “tương đối trôi chảy và ít nước mắt hơn so với rất nhiều người Việt khác”:
“Lúc bấy giờ tôi còn là một đứa nhóc tì nên hoàn toàn không có quyết
định gì. Ai biểu đi thì đi, xách thì xách, khiêng thì khiêng.
Chiều ngày 29 tháng Tư năm ấy, ba tôi đưa gia đình đến bãi Sau Vũng Tàu để rời Việt Nam cùng với một số gia đình khác.
Nhìn hình ảnh của ba tôi từ từ nhỏ lại, xa dần, mờ dần rồi khuất hẳn,
tôi cứ ngỡ ba sẽ đi sau bằng một chiếc tàu khác. Nhưng không ngờ ba tôi
đã quyết định ở lại chọn con đường nghĩa khí cho riêng ông.
Tàu rời bến lúc 7 giờ chiều và đến 4 giờ sáng thì loa phóng thanh báo
tin tàu bị bể bơm nước và kêu gọi đàn ông thanh niên phụ tát nước. Trời
còn tối đen, lúc đó mọi người lo lắng tàu sẽ đắm.
Các bà thi nhau đọc kinh cầu nguyện như ri. May mắn lúc đó có một chiến hạm của Mỹ đi qua và cho tất cả lên tàu.
Từng người một leo lên cái thang dây trong tiếng la hét, khóc lóc.
Một số bà mẹ, trong đó có mẹ của tôi réo gọi con cái mang theo hành lý
leo lên.
Bây giờ nghĩ lại cũng còn ngán vì một tay phải nắm vào thang dây, còn
tay kia thì xách đồ nặng. Rồi lại còn phải leo xuống để lấy thêm đồ
trong lúc người ta từ dưới đang đi lên và lính Mỹ thì không cho xuống,
mà mẹ tôi thì cứ la um sùm.
Tôi còn nhớ khi tôi nói: 'thôi mẹ ơi, bỏ lại tất cả đi!' tôi bị mẹ 'bộp' cho một cái đau điếng nên im luôn cho tới mấy ngày.
Chuyện đến đất tự do của tôi chỉ có vậy thôi. Nhưng nghĩ đến những
người đi vượt biên rồi bị cướp bóc, hãm hiếp, hoặc bị rớt xuống biển tôi
thấy đau xót quá bởi tự do của họ đã phải đổi bằng một giá quá lớn!”
Ra đi, vì không được học đại học
Chị Jennifer Nguyễn, ngoài 50 tuổi, đang sống tại thành phố Seattle
thuộc tiểu bang Washington, nhớ mãi kỷ niệm về các chuyến đi vượt biên
của mình vào năm 1979, sau khi không được chấp nhận vào trường Cao Đẳng
Sư Phạm với lý do “có thân nhân đi nước ngoài.”
Chị Jennifer kể:
“Sau khi học xong lớp 12 khoảng Hè năm 1979, tôi đậu vào trường Cao
Đẳng Sư Phạm nhưng bị đuổi học vì có thân nhân đi nước ngoài. Thế là ba
tôi bắt tôi phải vượt biên vì không còn tương lai nếu chỉ có bằng tú
tài.
Tôi đi chuyến đầu chung với mấy anh chị, hết thảy là 6 người. Chuyến
đó ở nhà có bao nhiêu nữ trang của Má tôi chết để lại đem chung một mớ
cho người tổ chức.
Sau khi ngủ một đêm trong một ngôi chùa ở Vũng Tàu, tất cả bị công an
ập vào bắt chở vào trại giam Vũng Tàu và bị tịch thu hết phần nữ trang
còn lại.
Lần đó, mấy chị em tô bị tù một tháng, trong đó có một chị ruột và một chị dâu tôi đang mang thai khoảng 6, 7 tháng.
Sau chuyến đó, tôi không muốn đi nữa vì quá hãi hùng chuyện ở tù,
nhưng ba tôi không chịu thua và thuyết phục tôi đi cho bằng được.
Tôi tiếp tục đi chuyến thứ 2, thứ 3, vẫn không thành công nhưng hên là không bị bắt mà trở về nhà an toàn.
Đến lần thứ 4 vào khoảng cuối năm 1979, chỉ vài ngày trước lễ Giáng Sinh, tôi ra đi ngay tại thành phố Mỹ Tho, nơi tôi ở.
Đi một mình, không có ai tiễn đưa vì sợ bị lộ. Tôi chỉ cần đi bộ ra
vườn hoa mất khoảng 15 phút từ nhà, rồi bước qua bờ tường của vườn hoa
là xuống tới ghe.
Ghe này là ghe chính, giả dạng đi đánh cá, từ từ đi ra cửa biển. Khi
gặp tàu đi tuần thì tôi phải thục đầu xuống vì da tôi trắng không giống
dân đi đánh cá. Ghe thì nhỏ mà có đến 76 người, ngồi chật như xếp cá mòi
vậy.
Ghe vượt sóng ra cửa biển, đi chưa bao lâu thì bị công an rượt. Chủ
ghe xả hết tốc độ, thoát được công an, nhưng ghe lại bắt đầu lạc phương
hướng.
Chưa hết, đến lúc mọi người tìm nước uống thì chỉ thấy toàn là dầu
thôi. Thì ra vì gấp rút lúc đổ người và tiếp liệu vào tàu chính, thùng
để nước và dầu nằm lẫn lộn, mở thùng nào cũng toàn là dầu chứ không tìm
thấy nước, thế là bà con bắt đầu dành nước uống, chửi lộn nhau chí chóe.
Đi không biết bao lâu thì thấy vài chiếc tàu nhỏ, nhưng ban đêm nên
không dám ra hiệu cầu cứu mà phải chờ đến trời sáng nhìn cho kỹ rồi mới
dám đốt vải để xin tiếp cứu thì họ lại làm lơ.
Mọi người vừa nản vừa lo vì lương thực mang theo chỉ có một bao gạo
do chủ ghe đem theo nấu cháo phát cho mọi người, ăn sắp hết, nước thì
lộn với dầu…
Sau 3, 4 ngày lênh đênh trên biển thì nhìn thấy dãy núi ở xa xa, bà
con mừng như chết đi sống lại vậy. Thế là chủ ghe và một số người bàn là
phải phá ghe và vứt máy xuống biển thì nó mới cho ghe mình vào. Sau vài
giờ dằn co thì ghe được vào gần đến bờ, mọi người phải nhảy xuống biển
và tự lội vào.
Khi vào bờ rồi thì mọi người mới biết mình đến bờ biển Mã Lai, phải
ngủ trên bờ biển một đêm, đến chiều ngày hôm sau mới có tàu của Cao Ủy
Tị Nạn chở sang đảo Pulau Bidong.
Những ngày trên trại thì hết đi xin quần áo cũ thì xin đồ ăn hộp của
những người đi định cư trước để ăn thêm phần ăn do Cao ủy phát. Tôi ở
trại khoảng hơn 6 tháng.
Đến ngày ra cầu Jetty để đi định cư, được nghe ca sĩ Lệ Thu hát trên
đài bài “Ngày Mai em đi…” nghe vui cho mình nhưng cũng không khỏi chạnh
lòng nghĩ đến những người quen trên đảo bị rớt phỏng vấn không biết đến
bao giờ mới tới phiên họ đi định cư..”
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment