Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.
Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”. Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã được ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây,
Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này.
Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau:
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân
- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn
42 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44
Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2,
Trung Đoàn 31, SĐ21BB.
- Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3,
Trung Đoàn 33, SĐ21BB.
Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và
tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có
năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng
đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá
lớn cho tổ quốc.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh
Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn
không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên
bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp
bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm
1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở
lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm
đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học
tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu
nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người
đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý
hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên
những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước
Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc
Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học
quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học
xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ
Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa
chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở
mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại
đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2.
Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu
Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ
Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được
thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về
môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí
cho trường.
Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi
và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường
khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng
đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được
mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo
vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia
non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan
chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc
Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho
chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một
may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em
TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng
Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn
nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật
lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về
các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục
Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực
Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi
những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư
Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho
những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng
được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái
xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng
Hòa.
Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan
Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân
Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng
bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi
nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên
chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học
Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt
lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu
đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương
Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là
hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt
Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân “Cọp Xám”.
Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và
làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự
chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng
vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt
trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả
năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó
Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và
nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu
Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu
dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh
giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời
yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh
Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn
một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần
thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: “Một là để dễ
sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng
là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn
xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với
tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy.
Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không
lùi. Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã.
Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.
Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá
Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An
Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh
bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân
bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc
nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người
lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa
pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang
hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ
tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà
dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy.
Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng
chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá
Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm
giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên
ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục
người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc
giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của
địch quân: “Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà
nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn”!
Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến
những loại cối 81 ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90
ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15
đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo
giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho
binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú.
Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó
bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài
300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng
quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính
theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ hai trái
lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ
diệu, chiến thuật “cò ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu sống hàng ngàn
sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm
danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy
nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với
quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên
100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba
chục chiến sĩ.
Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt
hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn
Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung
Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác
liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng
Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con
đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can
trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần
bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm
trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất
nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị
Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì
Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc
đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị
chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc
cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công
ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là
chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25
Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các
loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.
Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn
tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận
long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc
sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.
Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương
Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng
những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình
định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện,
Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra
ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận
tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.
Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng
Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát
tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi
lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ
quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của
Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt
động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến
nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ
ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn
tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng
Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những
chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình,
cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão
lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn
chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.
Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình
được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa
lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn
tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương
thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe
Jeep đi xuống quận.
Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang
vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng
ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh
dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên
võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh
đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng
xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông
Quận: “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B.
Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A”. Ngài Quận
Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không
trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ
lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt
treo đung đưa trên đầu.
Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị
Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng
gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam
Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như
Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể
lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta
cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của
Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có
35 tuổi.
Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn
lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận
tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó
khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và
thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một
người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè
1974, đã hỏi ông: “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh
Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không”? Con
người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời:
“Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có
hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ,
coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi
phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi
Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng,
Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi
sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua”. Ôi cao
cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh
đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời
khí khái.
Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất
nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi
tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các
cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô
danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả
một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc
Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi
phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng
đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương
Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết
một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn
nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết thì chết chứ không lùi”. Ông tự
biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với
chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động
Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong
cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh
đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi
ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân
thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã.
Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông
phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.
Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau
khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông
súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin
lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu
nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ
trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát
ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía
Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác
liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45
phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu
Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng
trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong
đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến
cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người
chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng,
trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công
chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu
và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng
nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh
tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy
lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân
ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng.
Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương
Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham
mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt
Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn
gằn giọng:”Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho
chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.
Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế
hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các
sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp
giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các
sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá
Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc
cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng
nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người
nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị
Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi
người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa
Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm
công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá:
“Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao. Bà Đại
Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất
của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu
và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều
lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên
này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng. Một
vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra.
Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà
Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn
cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ
giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo
Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái
đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và
cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.
Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục
người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp
trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không
thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép
con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và
thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong
tay Chúa”. Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho
chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.
Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị
thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất
của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau
buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến
giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang
đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi
phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối
cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa.
Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục
khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ
và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại
Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám
tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối
cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín
đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn
chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút
Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.
Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn
hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên
chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên
ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một mình, không
mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước
khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần
cuối”. Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn
nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên
khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy
ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn
cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng
thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.
Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh
Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn.
Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu
dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá
Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất
nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác,
có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như
xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng
của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương
tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi.
Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.
Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng,
trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: “Việt
Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”! Năm sáu tên bộ đội nhào vào
tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh
hùng sa cơ tàn nhẫn.
Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm
nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có
nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên
Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.
Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn
Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và
vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng
đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách
trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến
ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt
Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy
ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để
cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là
con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.
- Xin cuối đầu, kính phục trước anh linh Đại Tá Hồ-ngọc-Cẩn, người anh hùng của QLVNCH,
ReplyDeleteNgười anh hùng của nước VNCH.