Nhật ký hiệp ước đầu hàng quân đồng minh trên chiến hạm USS Missouri
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vô điều kiện trước
sức tấn công của quân đội Đồng Minh. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản
ký hiệp ước đầu hàng với các nhà lãnh đạo quân đội Đồng Minh trên chiến
hạm USS Missouri của Mỹ.
Năm ngày sau khi Nhật ký hiệp ước đầu hàng, ngày 7 tháng 9 năm 1945, thống tướng Mỹ Douglas McArthur, người chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương, thiết lập văn phòng làm việc tại Tokyo, mở đầu cho gian đoạn Mỹ chiếm đóng nước Nhật kéo dài trong sáu năm, tám tháng. Trong giai đoạn này, ông McArthur đã đề ra nhiều biện pháp thay đổi nước Nhật về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để biến nước Nhật từ một quốc gia hiếu chiến thành một nước đi theo con đường hòa bình, lo phát triển kinh tế.
Năm ngày sau khi Nhật ký hiệp ước đầu hàng, ngày 7 tháng 9 năm 1945, thống tướng Mỹ Douglas McArthur, người chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương, thiết lập văn phòng làm việc tại Tokyo, mở đầu cho gian đoạn Mỹ chiếm đóng nước Nhật kéo dài trong sáu năm, tám tháng. Trong giai đoạn này, ông McArthur đã đề ra nhiều biện pháp thay đổi nước Nhật về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để biến nước Nhật từ một quốc gia hiếu chiến thành một nước đi theo con đường hòa bình, lo phát triển kinh tế.
Tình cảnh nước Nhật sau khi bại trận
Thành phố Hiroshima bị tàn phá bởi bom nguyên tử
Sau khi bị bại trận và phải đầu hàng vô điều kiện vào năm 1945, nước
Nhật có nhiều thành phố bị tàn phá vì chiến tranh. Ngoài hai thành phố
là Hisosima và Nagasaki bị san phẳng vì bom nguyên tử với hàng triệu
người chết và bị thương, nhiều thành phố khác cũng bị tàn phá vì phi cơ
Mỹ ném bom vào các khu trung tâm công nghiệp để triệt hạ sức sản xuất
cho chiến tranh của Nhật. Khi người lính Mỹ đặt chân lên nước Nhật họ đã
sững sờ vì mức độ nước Nhật bị tàn phá trên sự tưởng tượng của họ. Tại
nhiều nơi, chỉ còn lại sườn sắt thép siêu vẹo, cột, đà gỗ bị cháy. Hệ
thống cấp nước đến các nhà bị phá hủy nên ở một số nơi, người dân phải
lấy nước ở vòi nước công cộng để sinh sống. Ở một số khu vực, nhà cửa bị
hư hại không còn cầu tiêu nên người dân phải đào lỗ cạnh nhà để tiêu
tiểu.
Trung tâm thương mại tại khu phố Meguro bị bom tàn phá nên năm 1948,
các cửa hàng được dựng lên bằng tre lá . Đến thập niên 1970 khu này được
xây dựng lại với các building kiên cố
Hàng triệu người lính giải ngũ cũng một lúc không có công ăn việc làm.
Nhiều người dân thất nghiệp vì các nhà máy bị tàn phá. Ngoài đường phố
nhiều cựu chiến binh và thương binh phải xin ăn.
Nạn thiếu thực phẩm đã xảy ra. Có trường hợp tại vùng quê có người nhảy
lên tàu hỏa để đi lên thành phố xem có thể kiếm gì ăn được. Nhiều người
phải tìm rau dại, đào củ ăn thay cơm. Mỹ đã phải cấp tốc chở gạo cứu đói
đến cho Nhật. Nhiều trẻ em lớn lên vào thời kỳ này vì thiếu ăn nên đã
bị còi cọc, không lớn được.
Nạn lạm phát lên cao. Nạn chợ đen cũng lan tràn. Hàng hóa rất khan hiếm
vì nhà máy bị phá hủy hết. Người dân Nhật lúc đó rất nghèo, chỉ có ít
tiền nhưng cũng chẳng có gì để mà mua.
Vì Nhật bị thua phải chấp nhận đầu hàng vô điều kiện nên phải chấp nhận
các biện pháp mà tướng McArthur đưa ra nhưng cũng có những người Nhật
chấp nhận hợp tác với người Mỹ trong các cải cách về nước Nhật vì họ
cũng đồng ý là các thay đổi này có lợi cho nước Nhật. Người Nhật đã gọi
ông là vị Shogun Mỹ.
Việc làm đầu tiên của ông là ra lệnh chở lương thực và các vật dụng cần
thiết cho đời sống đến Nhật để cứu đói và tránh các bất ổn xã hội do nạn
đói và thiếu thốn gây ra. Ông ra lệnh thực hiện chương trình cho học
sinh ăn trưa miễn phí tại các trường học Nhật.
Quân đội Mỹ tiến vào nước Nhật, giải thoát các tù binh Mỹ và thi hành
các điều kiện đã ký kết trong văn bản đầu hàng. Toàn bộ quân đội Nhật bị
giải tán. Các binh sĩ được cho về quê sống. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử nước Nhật, nước này bị quân đội ngoại bang chiếm đóng.
Lính Mỹ được lệnh phải tôn trọng phong tục tập quán của nước Nhật và
giúp đỡ người dân, chẳng hạn, khi vào nhà phải cởi giày để ở bên ngoài,
đứng điều khiển giao thông trước các trạm xe lửa có xe cộ đông đúc, giúp
đỡ trẻ em thiếu ăn. Người Nhật cảm động trước cách cư xử này của lính
Mỹ.
Một bé gái Nhật cõng em, chụp tại Hiroshima năm 1945
Điều đầu tiên chính phủ Nhật chuẩn bị khi lính Mỹ tiến vào nước Nhật là
mở ra hàng trăm nhà chứa điếm và các trạm giải trí để lính Mỹ đừng xâm
phạm đến phụ nữ Nhật. Một số phụ nữ Nhật lo sợ bị lính Mỹ hãm hiếp nên
đã cắt tóc ngăn, ăn mặc giả như là đàn ông khi đi ra ngoài. Có người kể
là có phụ nữ đem theo những viên thuốc độc cianide để phòng khi bị cưỡng
hiếp thì họ sẽ uống thuốc độc tự tử để khỏi bị mang nhục.
Lúc đầu, lính Mỹ được ra lệnh khi đi ra khỏi doanh trại phải trang bị
đầy đủ vũ khí giống như khi ra trận, không được phép thân mật hay kết bè
bạn với người Nhật. Nhiều người Nhật phàn nàn về chính sách này và sau
đó người Mỹ thấy người Nhật không có vẻ gì là thù hận người Mỹ và không
có ý định hại người Mỹ nên sáu tháng sau, lệnh trên được bãi bỏ. Lính Mỹ
có thể đi ra ngoài phố mà không cần phải đem vũ khí theo.
Khi ra tướng McArthur ra trước quốc hội Mỹ để trình bày cho quốc hội
biết kế hoạch ông sẽ thực hiện tại Nhật, ông nói là sẽ biến nước Nhật
thành một nước dân chủ và theo kinh tế tư bản.
Chính sách của Mỹ tại Nhật sau chiến tranh là tìm cách loại bỏ các thành
phần hiếu chiến đã chủ trương gây chiến tranh. Đồng thời với việc loại
các thành phần hiếu chiến là sửa đổi kinh tế để các thành phần chủ chiến
mất cơ sở về kinh tế. Về mặt xã hội, tinh thần thượng võ theo truyền
thống của Nhật bị xóa bỏ bớt.
Thay đổi về chính trị
Sau chiến tranh, có 23 viên chức Nhật trong hàng ngũ lãnh đạo, một số ở
trong quân đội, một số bên dân sự, bị đem ra tòa xử về tội ác chiến
tranh. Trong số 23 người này, có bảy người bị xử tử. Thủ Tướng Nhật thời
chiến tranh là Hideki Tojo cũng nằm trong số người bị xử tử.
Hideki Tojo (1884 - 1948)
Về phần Nhật Hoàng Hirohito, ông đứng ra nhận tất cả trách nhiệm về cuộc
chiến và chấp nhận từ chức nếu Mỹ yêu cầu. Tướng McArthur đã không đòi
hỏi Nhật Hoàng từ chức.
Có người lý luận là những tướng lãnh, những viên chức chính quyền bị xem
là tội phạm chiến tranh và bị trừng phạt chẳng qua là họ nghe theo lệnh
Nhật Hoàng. Thế mà đem trị tội những người thi hành lệnh mà lại không
trừng phạt người ra lệnh, tức là Nhật Hoàng, thì việc trừng phạt những
người kia chẳng còn có giá trị. Nhưng tướng McArthur hành động theo thực
tiễn. Ông thấy Nhật Hoàng là người được toàn dân Nhật tôn trọng nên ông
muốn Nhật Hoàng được tại vị để làm biểu tượng đoàn kết dân Nhật và đem
lại ổn định về chính trị. Nếu đem hạ bệ Nhật Hoàng thì khi người lãnh
đạo tối cao không còn, mọi người sẽ quay ra tranh giành quyền lực, chống
đối nhau, gây mất ổn định cho đất nước.
Nhật Hoàng đã đi khắp nơi trên đất nước Nhật đến nhiều gia đình để bắt
tay người dân, thăm hỏi về đời sống. Việc là này làm cho người dân rất
xúc động và lên tinh thần, cố gắng làm việc để vượt qua các khó khăn.
Tướng McArthur và Nhật Hoàng Hirohito
Hiến pháp của Nhật bị thay đổi để trở thành một hiến pháp của một nước
theo đường lối hòa bình. Hiến pháp Nhật trước đó được soạn vào năm 1889
và thời Minh Trị Thiên Hoàng theo mẫu của hiến pháp Anh để biến chế độ
nước Nhật từ chế độ quân chủ thành chế độ quân chủ lập hiến. Trong chế
độ quân chủ lập hiến, người dân được quyền bầu đại diện vào quốc hội,
đại biểu của dân tham gia việc soạn luật trong khi vua vẫn giữ vai trò
lãnh đạo tối cao.Với tư cách là người thắng trận, người Mỹ đã sửa đổi
một số điều trong hiến pháp và đưa sang cho quốc hội Nhật biểu quyết
chấp nhận. Việc soạn các sửa đổi trong hiến pháp được làm trong thời
gian rất ngắn, chỉ có sáu ngày.
Trong hiến pháp mới, Nhật Hoàng vẫn giữ vai trò lãnh đạo tối cao, nhưng
chỉ có tính cách biểu tượng cho quốc gia và sự đoàn kết dân tộc mà không
có quyền lực trong việc quyết định các đường lối, chính sách của quốc
gia. Đường lối và chính sách quốc gia do các chính trị gia được dân bầu
lên theo thể thức dân chủ đảm nhiệm.
Hiến pháp mới qui định nước Nhật sẽ không gây chiến với các nước khác để
chiếm đất đai. Nước Nhật sẽ không lập một quân đội đông đảo mà chỉ có
lực lượng phòng vệ quốc gia.
Trong hiến pháp mới, các quyền tự do căn bản của người dân như quyền tự
do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tôn giáo được tôn
trọng và phụ nữ cũng được quyền đi bầu.
Hiến pháp mới của Nhật được gọi là Hiến Pháp Hòa Bình, mở đầu với câu:
« Chúng tôi, nhân dân nước Nhật, mong muốn vĩnh viễn có hòa bình…
Chúng tôi mong muốn luôn luôn có được một chỗ đứng vinh dựng trong cộng
đồng thế giới trong việc duy trì hòa bình thế giới, trong việc hủy bỏ sự
độc đoán và sự nô lệ hóa, sự áp bức và lòng bất khoan dung. »
Điều 9 trong hiến pháp Nhật ngăn cấm mọi hoạt động quân sự . Điều này viết : « Nhân
dân Nhật không sử dụng chiến tranh để áp đặt lên nước khác uy quyền của
mình và không dùng vũ lực trong các vụ tranh chấp với các nước khác ».
Hiến pháp này cũng qui định Nhật sẽ không tuyên bố gây chiến với các
nước khác và không xây dựng một lực lượng bộ binh và hải quân lớn. Vì
hạn chế có một quân đội lớn nên Nhật tiêu ít vào quốc phòng hơn các nước
khác. Mỗi năm Nhật chỉ chi vào quốc phòng khoảng 1% ngân sách quốc gia.
Tỉ lệ trung bình của các nước khác là từ 2% đến 4%. Một số người Nhật
muốn Nhật có quân đội mạnh hơn nhưng đa số người Nhật muốn giữ tình
trạng như vậy. Cũng có lúc Mỹ muốn Nhật chi vào quốc phòng nhiều hơn vì
nếu Nhật có một lực lượng quân sự lớn hơn thì Mỹ sẽ có thể giảm bớt chi
phí về lực lượng quân sự của mình tại Á Châu trong việc ngăn ngừa sự
bành trướng của khối Cộng Sản nhưng người Nhật cũng vẫn không gia tăng
ngân sách quân sự . Họ muốn dồn ngân sách vào việc phát triển kinh tế.
Hiệp Ước Hòa Bình ký tại San Francisco năm 1951 bởi 48 nước, trong đó có
Mỹ, Liên Xô, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Nhật qui định Nhật là một
nước có chủ quyền về các chính sách đối nội và đối ngoại của quốc gia.
Năm 1956, Nhật trở thành hội viên của Liên Hiệp Quốc. Năm 1965, Nhật ký
hiệp ước bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Đại Hàn Dân Quốc (Nam
Hàn), nước trước đây là thuộc địa của Nhật.
Thay đổi văn hóa xã hội
Nhiều điều thay đổi trong xã hội Nhật đã được thực hiện trong giai đoạn
này. Những phong tục, tập quán được cho là đề cao tinh thần ham chuộng
sử dụng vũ lực và tinh thần quốc gia cực đoan bị ngăn cấm.
Tuồng Kabuki, loại tuồng cổ của Nhật, bị cấm. Tuồng Kabuki đã có từ lâu
đời nhưng được đề cao và phổ biến mạnh mẽ trong thập niên 1930 là thời
giới quân phiệt Nhật nắm quyền và thời tinh thần dân tộc được đề cao
mạnh mẽ. Nhưng đến năm 1947, tức là hai năm sau, thì lệnh cấm bị bãi bỏ
và ngày nay, tuồng Kabuki vẫn còn tồn tại.
Một cảnh trong tuồng Kabuki
Các môn võ bị cấm dạy trong đó có cả môn như Kiếm Đạo. Sau này, khi Nhật
được trả lại chủ quyền vào năm 1952, chính quyền Nhật đã bãi bỏ luật
cấm dạy võ. Các cuộc tranh tài về võ và đánh kiếm được phục hồi lại.
Nhưng sau này các môn võ nghệ được xem như là thể thao chứ không phải để
đào tạo, huấn luyện võ sĩ để theo sự nghiệp chiến tranh như thời xưa.
Trong trường học, giáo viên dạy học sinh về tinh thần dân chủ thay vì
dạy học sinh phải tôn thờ Nhật Hoàng. Những đoạn ca tụng tinh thần
thượng võ của giới Samurai trong sách giáo khoa bị bãi bỏ. Người dân
Nhật phải đem nộp hết các kiếm, trong đó có các thanh kiếm cổ có từ hàng
trăm năm. Ước lượng có đến hàng triệu thanh kiếm phải đem nộp cho nhà
nước.
Thần Đạo không còn được xem là quốc giáo mặc dù không bị cấm. Nhật Hoàng
tuy còn tại vị nhưng không được xem là một vị thần ở dưới trần thế như
xưa. Việc bãi bỏ Thần Đạo là quốc giáo và để cho tự do tôn giáo đã đưa
đến hiện tượng có một số người đứng ra đi giảng đạo, qui tụ tín đồ và
thành lập tôn giáo, đạo giáo mới.
Đền thờ Thần Đạo ở thành phố Kyoto
Thay đổi về kinh tế
Trước khi Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra vào năm 1939, Nhật đã là một nước công
nghiệp hóa với hệ thống kinh tế, chính trị có những nét giống như các
nước tư bản Tây Phương. Nhật có những công ty lớn gọi là Zaibatsu, do tư
nhân làm chủ, và kinh doanh trong nhiều ngành. Zaibatsu tiếng Nhật có
nghĩa là tập đoàn tài chính. Các Zaibatsu hoạt động trong ngành khai
thác quặng mỏ, luyện thép, chế tạo máy móc, chế tạo vũ khí, buôn bán với
các nước. Một số các Zaibatsu này là cơ sở kinh tế của tầng lớp chủ
chiến tại Nhật.
Xe hơi đầu tiên của hãng Toyota, kiểu AA bốn chỗ ngồi, 1936
Chế độ chính trị Nhật cũng phát triển theo qui luật hạ tầng kiến trúc
chi phối thượng từng kiến trúc với các công ty lớn có liên hệ với các
đảng chính trị và các đảng này tranh đấu cho quyền lợi của các công ty
trong quốc hội. Có sự liên hệ giữa các Zaibatsu và các đảng chính trị và
giới quân nhân chủ trương dùng chiến tranh bành trướng để chiếm các
vùng có nhiều quặng mỏ, nhiêu liệu. Số công ty lớn đáng được gọi là
Zaibatsu có đến hàng chục. Trong đó bốn Zaibatsu lớn nhất là Mitsubishi,
Sumitomo, Misui và Yasuda. Các công ty này đã hiện diện hàng chục năm,
từ khi Minh Trị Thiên Hoàng canh tân nước Nhật vào thập niên 1860. Hãng
Mitsubishi cũng chế tạo khí giới, bom đạn để phục vụ cho chiến tranh.
Chiếc chiến đấu cơ nổi tiếng của Nhật là Zero được chế tạo bởi hãng
Mitsubishi.
Chiến đấu cơ Zero do hãng Mitsubishi chế tạo
Sau 1945, Mỹ giải tán mười sáu Zaibasu, trong số đó có bốn công ty lớn
nhất là Mitsubishi, Sumitomo, Misui và Yasuda. Hai mươi sáu Zaibatsu
được tái cấu trúc lại để trở thành hàng trăm công ty nhỏ. Mục đích của
việc tái cấu trúc là để xóa bỏ ảnh hưởng của những thành phần chủ chiến
trong xã hội Nhật, từ lãnh vực chính trị cho đến kinh tế, văn hóa chứ
không chỉ giới hạn trong việc đem xét xử những người lãnh đạo chiến
tranh trong quân đội và chính phủ mà thôi.
Đồng thời việc tổ chức lại một số tập đoàn tài chánh lớn là việc ban
hành Luật Tản Quyền và Ủy Ban Kinh Doanh Công Bằng. Luật này nhằm mục
đích giảm bớt việc tập trung nguồn lợi kinh tế vào trong tay một thiểu
số người.
Kinh tế Nhật sau đó, với chính phủ có chủ quyền, có đặc tính là chính
phủ can thiệp và chi phối khá nhiều vào hoạt động kinh tế chứ không tự
do như nền kinh tế Mỹ. Một số thí dụ trong việc chính phủ can thiệp vào
kinh tế như chính phủ hạn chế số hãng được mở ra trong một số ngành công
nghiệp quan trọng. Việc hạn chế số hãng được mở ra nhằm mục đích vừa
duy trì sự cạnh tranh giữa các hãng với nhau, vừa giữ cho số vốn được
tập trung trong một số hãng mạnh, có khả năng cạnh tranh với các công ty
mạnh trên thế giới chứ không tản mát vốn vào các công ty nhỏ không đủ
sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Một thí dụ khác như chính phủ
giúp đỡ cho một số công ty quan trọng khi các công ty này gặp khó khăn,
tránh cho các công ty bị vỡ nợ, phải đóng cửa quá sớm, tạo thêm điều
kiện cho các công ty lướt qua các khó khăn khi kinh tế thế giới không
thuận lợi. Các biện pháp can thiệp của chính phủ có những ưu điểm cũng
như khuyết điểm cho nền kinh tế nói chung.
Nói chung Mỹ không tìm cách làm cho kinh tế Nhật suy yếu đi khi giải tán
các công ty lớn mà chỉ tìm cách xóa bỏ ảnh hưởng của các thành phần chủ
chiến. Mỹ muốn Nhật có một nền kinh tế thịnh vượng phát triển trong
khung cảnh hòa bình. Nền kinh tế thịnh vượng đem lại công ăn việc làm
cho người dân sẽ giảm bớt số người nghèo khổ bất mãn, thấy cuộc đời mình
bị bế tắc, không có tương lai sẽ gia nhập các phong trào chính trị cực
đoan, chủ trương dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
Người Mỹ đã thay đổi được gì
Những việc làm của tướng McArthur như thay đổi hiến pháp, thay đổi kinh
tế, văn hóa sau đó có điều được bỏ đi, có điều chỉ áp dụng ở một mức độ
nào đó hoặc chỉ có ảnh hưởng đến văn hóa, xã hội Nhật đến một mức nào
đó.
Điều đã thay đổi nước Nhật là phe quân nhân mất ảnh hưởng và không còn
can thiệp vào kinh tế, chính trị Nhật nữa . Quân đội Nhật chỉ giữ vai
trò phòng vệ quốc gia chứ những người lãnh đạo quân đội không làm kinh
tế, không can thiệp vào đường lối của chính phủ do dân bầu.
Nếu nhìn vào một số quốc gia ngày nay như Thái Lan, Indonesia,
Phillipines, Pakistan… với quân đội và cơ quan an ninh có ảnh hưởng
trong chính trị, kinh tế và có hậu quả xấu cho quốc gia thì việc triệt
tiêu được ảnh hưởng của giới quân nhân Nhật sau Thế Chiến Hai là sự
thành công. Sự thành công này có lợi cho Mỹ là Nhật sẽ không dùng quân
sự mà chống Mỹ, nhưng cũng có lợi cho Nhật là các thành phần kinh tế, xã
hội khác trong nước Nhật có cơ hội được hoạt động và phát triển mà
không bị giới quân nhân lấn át.
Tại Thái Lan, quân đội vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong chính trị.
Thủ tướng Thái mặc dù được dân bầu lên nhưng có thể bị lật đổ khi quân
đội làm đảo chánh. Như vậy, khi thủ tướng Thái có những chính sách làm
thiệt hại đến quyền lợi của quân đội thì sẽ bị quân đội ngăn cản. Nếu
thủ tướng cứ tiếp tục chính sách đó thì sẽ bị quân đội làm đảo chánh lật
đổ, rồi sau đó quân đội lại để cho bầu cử để có thủ tướng mới. Một số
tướng lãnh Thái tham nhũng và có quyền lợi trong một số công ty. Việc
quân đội dùng sức mạnh xen vào chính trị khiến cho một số hành vi phạm
pháp, tham nhũng không bị trừng phạt và quân đội dùng sức mạnh để bảo vệ
quyền lợi của một nhóm người chứ không theo sự công bằng xã hội.
Nước Nhật đã từng trải qua sự thay đổi vào giữa thế kỷ 19 khi những
người lãnh đạo muốn canh tân nước Nhật. Việc kinh doanh trước đó bị coi
thường. Tầng lớp thương nhân bị đứng hàng chót trong bốn tầng lớp Sĩ,
Nông, Công, Thương. Tầng trên cùng là Sĩ tức là Võ Sĩ, Samurai, là người
được trọng vọng, có quyền đeo kiếm đi ngoài đường. Sĩ của Nhật khác với
Sĩ của Trung Hoa và Việt Nam. Sĩ của Trung Hoa và Việt Nam là Nho sĩ,
là người xem trọng việc giáo dục dân, giải quyết vấn đề bằng hòa bình
hơn là dùng vũ lực. Để chấn hưng thương mại, những người chủ trương canh
tân đã viết sách thay đổi cách nhìn của dân Nhật về giới thương nhân.
Tầng lớp võ sĩ cũng bị giảm bớt giá trị khi chính quyền không còn duy
trì sự phân biệt các tầng lớp một cách chặt chẽ như xưa. Với sự thay đổi
của người Mỹ, giới quân nhân bị mất ảnh hưởng rất nhiều, tinh thần võ
sĩ đạo đề cao sự can đảm, không sợ chết không còn được trọng vọng, thay
vào đó là một lớp doanh nhân, xem việc kiếm tiền là mục tiêu cần theo
đuổi.
Võ sĩ, Samurai
Việc giảm đi tinh thần thượng võ, gia tăng tinh thần kinh doanh làm cho
một số người Nhật bất mãn vì thấy văn hóa truyền thống của Nhật bị phai
nhạt đi. Nhưng chính đa số dân Nhật cũng tán thành việc làm giảm bớt
tinh thần thượng võ vì họ thấy sự tai hại ghê gớm của chiến tranh. Về
những năm sau này, có trường hợp một người Nhật tự mổ bụng tự tử để tỏ ý
phản đối văn hóa mới, không còn xem trọng các đức tính của Samurai nữa.
Xe Honda Civic 1973, kiểu xe hơi đầu tiên của hãng Honda khi hãng này bước qua lãnh vực sản xuất xe hơi
Những gì nước Nhật không thay đổi
Tuy Mỹ có thay đổi hiến pháp và luật pháp, cũng với ý định thay đổi cả
văn hóa Nhật nhưng sau hàng chục năm, có những điều Nhật vẫn không thay
đổi nhiều.
Xã hội Nhật vẫn có tính cách tôn ti trật tự, người dưới nghe lời người
trên, chứ không giống như các nước Tây Phương mỗi người là cá nhân bình
đẳng với nhau.
Vai trò phụ nữ Nhật trong các hoạt động kinh tế, xã hội vẫn khiêm
nhường hơn so với vai trò phụ nữ Tây Phương. Trong hàng chục năm sau
chiến tranh, gia đình Nhật vẫn còn là người chồng đi làm, vợ ở nhà chăm
sóc gia đình, con cái trong khi cùng thời gian đó, tỉ lệ phụ nữ Tây
Phương ra ngoài đi làm cao hơn.
Người Nhật vẫn giữ thói làm việc rất cẩn thận, chu đáo. Vào đầu thập
niên 1980, khi hàng hóa Nhật với đồ điện tử, xe hơi, xe mô tô xuất cảng
lan tràn trên thế giới, người Mỹ thấy hàng hóa Nhật tốt hơn, bền hơn nên
tìm hiểu tại sao. Họ thắc mắc tại sao người Nhật học phương pháp kiểm
soát phẩm chất trong công nghiệp từ Mỹ lại sản xuất ra hàng hóa có phẩm
chất cao hơn hàng hóa Mỹ. Người Mỹ thấy là sở dĩ hàng hóa Nhật có phẩm
chất tốt là vì người Nhật làm việc với thái độ cẩn thận, chu đáo, để ý
đến từng chi tiết nhỏ.
Tòa nhà với Tháp Đồng Hồ tại Tokyo, 1950
Phép lạ Nhật Bản
Vào thời gian đầu tiên sau 1945, Nhật là một nước bị chiến tranh tàn phá
nên kinh tế Nhật là kinh tế thắt lưng buộc bụng, đời sống kham khổ,
phải làm việc nhiều. Đến thập niên 1960 người ta nói đến Phép Lạ Nhật
Bản khi kinh tế Nhật hồi phục mau chóng và đi vào giai đoạn tăng trưởng
với tốc độ nhanh. Vào thời gian này, tại Châu Âu, kinh tế Tây Đức cũng
hồi phục và phát triển nhanh. Dư luận tại miền Nam lúc đó nói rằng Đức
và Nhật là hai nước kẻ thù của Mỹ mà ngày nay trở thành bạn và có nền
kinh tế phát triển thịnh vượng, nên có nhiều người hy vọng việc miền Nam
sẽ có được sự giúp đỡ của Mỹ để phát triển kinh tế.
Tại Châu Âu, sự giúp đỡ của Mỹ được nhắc đến qua chương trình Marshall.
Qua chương trình này, Mỹ đem tiền cho các nước Tây Âu vay để các nước
này xây dựng lại hạ tầng cơ sở, hồi phục lại nền công nghiệp đã bị chiến
tranh tàn phá trong Thế Chiến Hai. Tại Nhật, không có chuyện Mỹ đổ tiền
vào một cách dồi dào như tại Tây Âu nhưng Mỹ cũng có góp phần làm cho
kinh tế Nhật phát triển nhanh hơn trong việc dành các hợp đồng cung cấp
quân trang, quân dụng cho quân đội Mỹ trong hai cuộc chiến tranh tại Đại
Hàn, 1950 – 1953, và chiến tranh tại Việt Nam vào thập niên 1960.
Sự phục hồi kinh tế của hai nước Tây Đức và Nhật cũng là do chính phủ
các nước này biết quản lý kinh tế một cách khôn ngoan và người dân các
nước này hăng hái làm việc, nhưng đối với dân miền Nam lúc đó thì trường
hợp hai nước này cho thấy ít ra là hai nước này có thể trở thành thịnh
vượng khi nằm trong khu vực ảnh hưởng của Mỹ, dù là trước đó đã là kẻ
thù của Mỹ.
Xe Toyota Corona 1968, xuất hiện ở miền Nam VN do nhập cảng từ Nhật
Phép lạ Nhật Bản là làm việc nhiều và chịu khó,Vào thập niên 1950, 1960
dân Nhật sống đời sống cần kiệm, kham khổ. Một ký giả Tây phương mô tả
bữa cơm của một gia đình công nhân Nhật thường không có thịt. Trên mâm
chỉ có mấy miếng đậu phụ. Cả nhà ăn đậu phụ chấm tương. Ăn xong rồi thì
chan canh rau cũng nấu với đậu phụ. Ăn canh sau cùng cũng để rửa sạch
bát để không còn dính một hạt cơm nào trong bát. Nhật là đảo quốc thì
ăn tôm, cá nhiều hơn. Thịt bò tại Nhật rất đắt chỉ có nhà giàu mới có
tiền ăn thịt bò. Vì Nhật ít đất nên không để đất trồng cỏ để nuôi bò,
cho nên phải nhập cảng thịt bò. Người Nhật, người Đài Loan và người Đại
Hàn ăn đậu phụ rất nhiều so với người Việt. Đậu phụ là nguồn cung cấp
chất protein cho bắp thịt cần cho những người làm việc nặng và đậu phụ
rẻ hơn thịt.
Phép lạ Nhật Bản cũng là sự tính toán, tiết kiệm trong đời sống. Nhật
tuy đất ít nhưng cũng có thể tự túc được gạo. Để phát huy năng suất của
đất, người Nhật sử dụng nhiều phân bón hóa học. Vì thế giá thành của lúa
làm ra cao. Chính phủ Nhật phải phụ cấp cho nông dân để nông dân có thể
bán lúa trong nước với giá thấp hơn. Để đạt được mức cung cấp gạo tối
đa cho một diện tích đất ít ỏi, người Nhật trồng loại lúa thượng hạng.
Loại lúa này họ đem xuất cảng bán được với giá cao. Số tiền bán được họ
mua gạo hạng thường về cho dân dùng như thế họ có được nhiều gạo hơn.
Trong những năm từ đầu thiên niên kỷ 2000, chính phủ Nhật bỏ phụ cấp
trồng lúa cho nông dân và bỏ chính sách phải tự túc được về gạo mà nhập
cảng gạo cho dân trong nước dùng. Họ dùng đất để xây nhà máy, chế tạo
hàng hóa đem bán thì được lợi gấp bội việc trồng lúa.
Phép lạ Nhật Bản cũng là sự tỉnh táo, sáng suốt nhìn vào tình thế. Người
Nhật có thể rình giết lính Mỹ, quấy rối quân đội Mỹ mãi mãi để đuổi
người Mỹ đang chiếm đóng nước Nhật. Nhưng làm thế thì Nhật sẽ trở thành
kẻ thù của Mỹ và mất đi dịp học hỏi kỹ thuật của người Mỹ. Người Nhật
hiểu họ thua Mỹ là vì kém về kỹ thuật trong nhiều mặt, kém về tiềm năng
kinh tế. Vì thế họ đưa ra khẩu hiệu "đuổi kịp người Tây Phương, vượt qua người Tây Phương".
Họ đã từng canh tân nước Nhật vì thấy khoa học kỹ thuật và kinh tế là
nền tảng của sức mạnh quốc gia. Họ tìm cách xây dựng nền tảng của sức
mạnh quốc gia trong khi hoàn cảnh bại trận giới hạn họ trong một số mặt.
Họ đã tự nhủ với nhau rằng "Nếu chúng ta không thể làm người thắng giỏi thì chúng ta sẽ làm người thua giỏi". Người thua giỏi là người biết nuôi sức mình để chờ cơ hội thuận tiện mà đứng thẳng lên.
Nhật là thuộc địa kiểu mới của Mỹ?
Cho đến ngày nay cũng vẫn còn có người gọi các nước nằm trong vùng ảnh
hưởng của các nước tư bản Tây phương là « thuộc địa kiểu mới » của các
nước Tây phương.
Chữ thuộc địa kiểu mới phát sinh từ chỗ sau Thế Chiến Hai, các nước Tây
Phương đã trả lại độc lập cho các nước thuộc địa nhưng vẫn giữ quan hệ
về kinh tế, chính trị với các nước này. Các nước thuộc địa cũ tuy được
độc lập nhưng vẫn còn nền kinh tế nông nghiệp, chưa công nghiệp hóa nên
vẫn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của các nước Tây phương, các nước Tây
Phương vẫn khai thác và mua nguyên liệu từ các nước thuộc địa cũ giống
như thời các nước này còn là thuộc địa. Chẳng hạn, các nước cựu thuộc
địa của Anh, sau khi được trả độc lập vẫn ở trong khối Common Wealth do
Anh dẫn đầu và buôn bán, giao thiệp với Anh. Một số nước cựu thuộc địa
của Pháp ở trong khối Liên Hiệp Pháp và tiếp tục buôn bán, giao thiệp
với Pháp.
Trường hợp của Nhật xem ra không thể xếp chung vào với các nước cựu
thuộc địa vì Nhật đã là một nước công nghiệp hóa chẳng khác gì các nước
Tây phương từ trước Thế Chiến Hai. Sau Thế Chiến Hai, vì thua trận nên
Nhật và Đức bị Mỹ khống chế không cho có quân đội lớn, nhưng về mặt kinh
tế, Nhật là một nước công nghiệp hóa nên Nhật bán hàng cho các nước
khác đồng thời mua nguyên liệu từ các nước khác giống y như các nước Tây
Phương đã công nghiệp hóa chứ không phải là nước chỉ tiêu thụ sản phẩm
công nghiệp của các nước Tây phương và cung cấp nguyên liệu cho các nước
công nghiệp. Vì thế không thể gọi Nhật là thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Nhật bán hàng sang Mỹ nhiều hơn Mỹ bán sang Nhật. Công ty Toyota của
Nhật đã soán ngôi công ty GM của Mỹ trong ngôi vị công ty bán xe hơi
nhiều nhất thế giới thì đâu thể gọi Nhật là thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Qua đến thập niên 1980, một số nước Á Châu trước đây bị gọi là thuộc địa
kiểu mới như Mã Lai, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Phillipines lại
được xem là Con Rồng Của Á Châu khi có nền kinh tế phát triển nhanh.
Trường hợp Đài Loan và Nam Hàn thì từ nước nông nghiệp sau Thế Chiến Hai
ngày nay đã thành một nước công nghiệp sản xuất hàng bán đi khắp thế
giới.
Dù gọi là thuộc địa kiểu mới hay là gì chăng nữa thì trong nền kinh tế
tự do của thế giới, nước nào mà người dân hăng hái hoạt động, có chính
sách phát triển khôn ngoan thì cũng vươn lên được.
Người Mỹ đã thay đổi nước Nhật ở chỗ giới hạn khuynh hướng gây chiến
tranh, nhưng trong khung cảnh kinh tế tự do của thế giới, nước Nhật cũng
vẫn vươn lên được bằng các sử dụng tốt nhất các điều kiện eo hẹp nhất
định mà họ có.
Blog Minh Đức
No comments:
Post a Comment