Wednesday, February 27, 2013

BÊN THẮNG CUỘC - Tập 1 - Chương 10

Chương 10: Đổi Mới

***

Từ chỗ tập trung vào tay nhà nước ruộng đất, nhà máy và tất cả các quyền sản xuất, kinh doanh, từ tháng 12-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu cho phép “các thành phần kinh tế” được làm ăn một cách có giới hạn. Đồng thời, nhà nướccũng từng bước cho tự do lưu thông hàng hóa trong nước, để thị trường điều tiết giá cả thay vì lên kế hoạch và quyết định bằng các mệnh lệnh hành chánh. Việc chấp nhận nền kinh tế vận hành theo các quy luật gần giống như nó vốn có được Đảng gọi là “đổi mới”. Để đi tới quyết định đó, các nhà khởi xướng cũng đã phải mất rất nhiều thời gian để thuyết phục các đồng chí trong Đảng và thuyết phục chính mình.

Hội nghị Đà Lạt
Giữa năm 1983, khi đến làm việc tại nhà máy Viso, một trong những những điển hình xé rào ở Sài Gòn, ông Trường Chinh nói với Giám đốc Nguyễn Quang Lộc: “Nay tôi đến đây để nghe. Chú như một chuyên gia cứ báo cáo hết chứ không phải lễ lạt gì”. Ông Lộc báo cáo xong thì đã mười một giờ trưa. Bác sỹ riêng yêu cầu Trường Chinh nghỉ, nhưng ông nói: “Tôi phải xuống xem nhà máy đã”. Năm ấy Trường Chinh bảy mươi lăm tuổi.
Sau khi trở lại sân chính, mọi người nhìn thấy ông, vây quanh. Theo ông Lộc thì họ là những công nhân đã làm việc ở đây từ trước 1975, là những người mà “cơ quan chức năng” từng nghi ngờ là “địch”. Trường Chinh nói: “Phải chụp ảnh với giai cấp công nhân”. Chụp ảnh xong, ông ôm vai ông Lộc ngay giữa sân: “Hôm nay bác chỉ dặn cháu một điều, làm gì thì làm cũng phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Ông Lộc nhớ lại: “Tôi có cảm giác đó là lời thầm thì của một papa”.
Sở dĩ những người như ông Trường Chinh và đa số trong Ban Bí thư lúc ấy đồng ý với “Khoán 100”, theo ông Trần Đức Nguyên, là vì nó chưa đụng đến chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Khoán ruộng cũng như “xé rào”, để được chấp thuận thì điều quan trọng nhất là phải làm cho các “Papa” tin rằng chúng không hề thách thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ông Trường Chinh đến Viso từ một gợi ý của ông Võ Văn Kiệt. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, con trai ông Trường Chinh: “Anh Sáu Dân giúp ông cụ hiểu thêm nhiều về thực tế, đặc biệt là từ Hội nghị Trung ương 6, giữa năm 1979. Anh khuyên cụ đi cơ sở nhiều hơn để trực tiếp nắm bắt tình hình”. Tháng 9-1982, Bộ Chính trị vào làm việc tại Sài Gòn, phê phán xé rào hết sức nặng lời, có người còn quy thành phố là “phản động”. Tại hội nghị, theo ông Nguyễn Văn Huấn, thư ký của ông Kiệt: “Ông Tố Hữu bóng gió: Sáu Dân định làm vua Sài Gòn”.
Cũng như ông Nguyễn Văn Linh, trong cuộc “làm việc” này, ông Kiệt chọn con đường im lặng. Ông Kiệt và Thành ủy Thành phố nhận ra phải tìm một con đường khác để từng bước thuyết phục trung ương thừa nhận nhận xé rào. Con đường đó, theo ông Nguyễn Văn Huấn, khi ấy là thư ký riêng của ông Kiệt, là: “Mời các anh Bộ Chính trị đi thực tế, xuống cơ sở, để các anh ấy tự nhận ra làm ăn theo cách cũ là không được nữa”.
Trước đó, tháng 4-1983, ông Trường Chinh đã đến Tây Nguyên để tìm hiểu cách “đồng bào Tây nguyên đi lên chủ nghĩa xã hội”. Tại đây, ông giật mình khi biết trên văn bản nói là có 93% hộ dân Tây Nguyên đã vào tập đoàn, hợp tác xã, nhưng hoạt động của mô hình “kinh tế xã hội chủ nghĩa” đó chỉ là hình thức. Đồng bào vẫn du canh, phá rừng, làm rẫy với cách canh tác lạc hậu như cũ; hợp tác xã vẫn phân phối theo lối bình quân vì chưa biết tính toán định mức, cộng điểm. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, người tháp tùng chuyến đi này: “Anh Y Ngông Niek Đam, bí thư Daklak, nhờ tôi giúp báo cáo sự thật này vì anh ngại”. Nghe xong, ông Trường Chinh hỏi: “Chả nhẽ ở dưới người ta nói dối Bộ Chính trị và Trung ương?”. Y Ngông thật thà: “Dạ, nói dối”.
Theo ông Trần Đức Nguyên, thư ký của Trường Chinh, ngay trong chuyến đi đó, ông Trường Chinh đồng ý cho Daklak tiếp tục chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ đồng bào dân tộc. Đồng thời, khi trở lại Hà Nội, ông Trường Chinh đã “văn bản hóa” quan điểm này trong một chỉ thị của Ban Bí thư do ông ký. Tháng 5-1983, sau nhiều chuyến “vi hành” trở về, họp Bộ Chính trị, ông Trường Chinh phát biểu: “Chúng ta đang ở trong tình hình nói dối phổ biến mà mọi người làm như là không nói dối”.
Sau chuyến đi đến nhà máy Viso, ông Trường Chinh muốn chia sẻ những vấn đề ông ghi nhận được từ hiện tượng xé rào mà ông Võ Văn Kiệt nhen nhúm và cắm cờ điển hình từ năm 1979. Tháng 7-1983, nhân khi có một số vị trong chính phủ khác đang cùng ông nghỉ tại Đà Lạt, Trường Chinh đã liên hệ với Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu có báo cáo chính thức về “xé rào”.
Bí thư Thành ủy lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh xuống Viso nói với ông Lộc: “Lộc ơi, ta phải đi Đà Lạt. Các anh lãnh đạo đang nghỉ trên đó”. Ông Lộc hỏi: “Làm gì anh Mười?”. Mười Cúc: “Tôi cho rằng anh Trường Chinh muốn các anh ở ngoài kia hình dung được công việc của các cậu. Các cậu cũng phải gặp để các anh ấy biết một tầng lớp cán bộ mới”. Ngoài Nguyễn Quang Lộc, giám đốc Viso, “tùy tùng” ông Linh bao gồm những “điển hình xé rào” của ông Võ Văn Kiệt: Lê Đình Thụy, giám đốc Thuốc lá Vĩnh Hội; Nguyễn Thị Lý, giám đốc Dệt Việt Thắng; Trần Tựu, giám đốc Dược phẩm 2-9.
Ông Lộc nhớ lại: Lê Đình Thụy vào phòng họp vừa nhìn thấy các “papa” liền khóc rống lên. Ông Phạm Văn Đồng mắng: “Làm sao anh khóc?”. Ông Thụy mếu máo: “Chúng tôi khổ quá, được giao kế hoạch mà trên không cân đối vật tư, phải tự chạy vạy để hoàn thành kế hoạch trên giao và nuôi sống công nhân. Vậy mà không được động viên lại còn nay đòi thanh tra, mai đòi bắt”. Ông Đồng lại mắng: “Khi người ta giao kế hoạch người ta phải cân đối chứ. Tại sao có thể thế được?”. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Chí Công nói: “Nó giao đại thể thế chứ không có cân đối đâu anh ơi”. Ông Đồng nói: “Tại sao không báo Đỗ Mười?”. Ông Công: “Trên nó còn thứ trưởng, bộ trưởng làm sao nó lên tới phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà báo cáo được”.
Cũng tại Hội nghị Đà Lạt, ông Trường Chinh đã nghe ông Phan Văn Khải, phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh, và ông Mười Phi, giám đốc ngoại thương, nói về “xé rào” trong hoạt động của khối phân phối lưu thông. Theo ông Nguyễn Quang Lộc: “Sau bốn ngày lắng nghe, ông Trường Chinh ra ôm vai chúng tôi, nói: Các chú gặp khó khăn nhưng đã rất dũng cảm. Phàm là một người cộng sản, chúng ta đừng sợ khó khăn, đừng sợ sai lầm, sai thì sửa. Nhưng gì thì gì, phải kết hợp tốt giữa lý luận với thực tiễn”.
Từ cuối tháng 12-1981, ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội làm chủ nhiệm Ủy Ban Kế hoạch Nhà nước. Sau hai năm ngồi ở trung ương, ông nhận ra nếu không “tháo gỡ được cách nhìn thì sẽ không tháo gỡ được cơ chế”. Ông Kiệt gặp Bùi Văn Long, tổng giám đốc Liên hiệp Dệt, đề nghị tổ chức hội nghị ngành dệt để các giám đốc nói hết những ách tắc của mình. Ông Kiệt dặn: “Mời được càng nhiều lãnh đạo trung ương về nghe càng tốt”.
Tháng 4-1984, tại khuôn viên công ty Dệt Phước Long, hơn hai mươi giám đốc trong và ngoài ngành dệt đã báo cáo trước 200 đại biểu gồm lãnh đạo các tỉnh, thành phố, các bộ, ban ngành và gần như đầy đủ các vị trong Hội đồng Bộ trưởng. Tuy hội nghị khá dài, kéo tới ba ngày, nhưng không khí càng về sau càng cởi mở. Trả lời một chất vấn về chính sách “hạch toán hai sổ”, Tổng Giám đốc Bùi Văn Long nói thẳng: “Đúng là tôi có hai sổ: một sổ ghi thu chi các sản phẩm đầu vào theo giá nhà nước, hợp pháp nhưng không hợp lý; một sổ ghi thu chi theo giá thật trên thị trường, hợp lý nhưng không hợp pháp. Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên, sổ hợp lý để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ: Tôi mua cây tre, người ta chỉ bán với giá 1,5 đồng một cây nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép mua với giá một đồng một cây. Tôi đành nói anh em mua một cây tre rồi chặt ra làm đôi, tính hai cây để ghi vào sổ cho hợp pháp” (510).
Những hội nghị như Đà Lạt hay Dệt Phước Long đã giúp các nhà lãnh đạo nghe được trực tiếp những gì đang diễn ra thay vì nghe qua các báo cáo mà, theo ông Trần Nhâm, thường không phản ánh đúng thực tế, cho dù được đóng dấu “mật” và chỉ lưu hành trong nội bộ. Nếu như những người như ông Võ Văn Kiệt không tạo ra thực tiễn xé rào thì những người như ông Trường Chinh sẽ không nhìn thấy sự bức bối của cơ chế. Nhưng nếu như ông Trường Chinh không đủ bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy để giải thích thực tiễn và chuẩn bị cơ sở lý luận thích hợp với môi trường chính trị lúc bấy giờ thì ông cũng khó mà thuyết phục được các đồng chí của ông trong Đảng.

Nhóm giúp việc mới
Sau chuyến đi Tây Nguyên, ông Trần Đức Nguyên bị điều đi khỏi văn phòng Trường Chinh. Ông Trần Nhâm, một đồng nghiệp của ông Nguyên, cho biết: “Lý do công khai để Ban Tổ chức thay anh Nguyên là vì anh Nguyên có một người chị định cư ở Pháp. Thời ấy lý lịch như thế là ghê lắm”. Nhưng, cũng theo ông Nhâm, nguyên nhân sâu xa là do trong các cuộc làm việc chung của nhóm, ông Trần Đức Nguyên hay “nhận xét về các nhà lãnh đạo khác”. Một người trong nhóm giúp việc đã ghi lại đầy đủ các phát ngôn này và sau đó đi báo với Ban Tổ chức.
May mắn là chỗ trống của ông Nguyên đã được “điền” bằng ông Hà Nghiệp, một nhà nghiên cứu xuất sắc của thập niên 1980. Ông Hà Nghiệp lúc ấy đang làm vụtrưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng Trung ương Đảng. Ông có bằng đại học và phó tiến sỹ về cơ khí ở Liên Xô, về nước giảng dạy ở trường Đại học Bách khoa. Năm 1975 ông được trưng tập vào Nam tiếp quản các cơ sở kinh tế, rồi về công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng. Khi ấy, ông Trần Đức Nguyên cũng được điều từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Văn phòng Trung ương. Ông Nguyên kể: “Hai chúng tôi thường làm việc với nhau, rất thân nhau, hiểu nhau vì Vụ của anh Nghiệp đảmnhiệm chính công tác nghiên cứu, biên tập phục vụ Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Tôi đặc biệt quý anh Hà Nghiệp ở cách nghĩ không bị gò vào khuôn khổ thông thường mà luôn luôn tìm tòi cái mới phù hợp với thực tế. Hồi đó, những người có tư tưởng đổi mới rất dễ bị phê phán. Anh Hà Nghiệp nói vui: những người này phạm sai lầm vì đúng quá sớm”.
Theo ông Đặng Xuân Kỳ, chính ông Trường Chinh đã yêu cầu Ban Tổ chức chọn đích danh ông Hà Nghiệp. Tháng 7-1983, khi đang ở miền Nam để chuẩn bị cho Hội nghị Đà Lạt, Trường Chinh đã cho gọi Hà Nghiệp vào dù khi ấy thủ tục Ban Tổ chức làm vẫn chưa hoàn chỉnh. Ở Văn phòng Trung ương, Hà Nghiệp nổi tiếng luôn “nói ngược”. Theo ông Trần Nhâm: “Một vị lãnh đạo trong Văn phòng Trung ương cũng muốn đẩy đi, vì nghĩ kiểu Hà Nghiệp chỉ có thể làm việc với cụ Trường Chinh không quá ba tháng. Không ngờ, ở càng lâu Hà Nghiệp càng trở thành một trợ lý mà ông Trường Chinh tâm đắc nhất”.
Ông Đặng Xuân Kỳ cho rằng: “Sẽ không có Trường Chinh của năm 1986 nếu như đầu thập niên 1980 ông không tự mình lựa chọn những người giúp việc”. Ông Đặng Xuân Kỳ kể: “Tôi học ở Nga tới năm 1965. Sau hai năm về nước, tôi nhận ra bộ máy của mình có vấn đề. Tôi đề nghị cha tôi bắt đầu từ việc đổi mới bộ máy giúp việc cán bộ chủ chốt. Nhiều người trong số họ xa rời thực tế, chỉ dựa dẫm vào tiếng tăm các nhà lãnh đạo để hưởng bổng lộc. Nhưng năm ấy cụ không nghe tôi. Phải tới năm 1972, cha tôi mới thừa nhận là cần phải thay người Trợ lý số Một. Nhưng khi thay xong, tôi nói với ông: ‘Người này cũng không khác những người trước’. Cha tôi bảo: ‘Đây là người Ban Tổ chức đưa về mà?’. Tôi nói: ‘Nhưng vẫn không phải là người ta cần’. Cha tôi ngạc nhiên: ‘Tổ chức thì làm sao sai được?’ ”.
Quyền lực của Ban Tổ Chức Trung ương dưới thời Trưởng Ban Lê Đức Thọ có mặt gần như ở khắp nơi. Nhưng theo ông Kỳ: “Từ năm 1980, cha tôi không để cho ông Lê Đức Thọ can thiệp nữa. Cụ tự chọn lấy những người giúp việc, và nếu Ban Tổ chức không đồng ý ai, cụ yêu cầu phải giải thích”.
Cuối năm 1983, ông Trường Chinh nói với ông Hà Nghiệp và Trần Nhâm: “Tình hình cấp bách, nếu cứ tiếp tục như thế này, đất nước sẽ bế tắc”. Ông yêu cầu lậpmột nhóm nghiên cứu tư vấn. Ông dặn: “Phải chọn những người có đầu óc mới mẻ, hiểu chính sách kinh tế mới”. Nhóm nghiên cứu ngay sau đó được hình thành.
Ngoài Hà Nghiệp và Trần Nhâm, nhóm còn gồm Đào Xuân Sâm, chủ nhiệm Khoa Quản lý Kinh tế của Học viện Nguyễn Ái Quốc; Lê Xuân Tùng, phó chủ nhiệm khoa của học viện này kiêm thư ký của ông Lê Đức Thọ; Võ Đại Lược, viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới; Dương Phú Hiệp, phó viện trưởng Viện Triết học; Lê Văn Viện, giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đang làm chuyên gia giúp tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; một phó Ban Cơ yếu Trung ương và ba chuyên viên cao cấp Ban Kinh tế Trung ương, Nguyễn Thiệu, Trần Đức Nguyên và NguyễnVăn Đào nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại thương.
Giáo sư Dương Phú Hiệp nói: “Trước đó đã có tiền lệ Tổng Bí thư Lê Duẩn lập ra nhóm nghiên cứu về Làm Chủ Tập Thể, nên ông Trường Chinh cũng có cơ sở để báo cáo với Bộ Chính trị về việc hình thành nhóm nghiên cứu của ông”. Theo Giáo sư Hiệp, trong buổi gặp đầu tiên, ông Trường Chinh nói: “Tôi biết các đồng chí lànhững nhà khoa học, những người yêu nước, muốn đóng góp. Tuy nhiên, nếu phát biểu ra ngoài những ý kiến mạnh mẽ bây giờ rất dễ bị quy chụp. Nhưng ở đây, chúng ta cứ nói thẳng, nói hết, để tôi tìm cách nói lại trong Bộ Chính trị, để Bộ Chính trị tìm biện pháp khắc phục những thiếu sót của đất nước”.
Trong các cuộc họp của nhóm nghiên cứu, ông Trường Chinh chỉ nghe và hỏi thêm chứ không phát biểu ý kiến hay kết luận. Theo ông Trần Đức Nguyên: “Ôngmuốn chúng tôi thật sự phát huy tự do tư tưởng, không bị trói buộc bởi những quan điểm giáo điều, bảo thủ”. Trường Chinh nói với nhóm nghiên cứu: “Tôi lắng nghe các đồng chí, nhưng vì tuổi cao, ghi chậm nên việc ghi chép xin nhờ mấy đồng chí thư ký của tôi giúp”. Nhưng khi các chuyên gia phát biểu, ông không chỉ lắng nghe mà còn mở sổ, cặm cụi ghi chép với một thái độ trân trọng và khiêm tốn. Phương pháp của ông Trường Chinh đã tạo ra một không khí làm việc hết sức cởi mở trong nhóm.
Một lần, khi ông Trường Chinh hỏi Giáo sư Dương Phú Hiệp: “Khi nào thì ta có thể kết thúc chặng đường đầu? Khi nào thì ta có thể kết thúc thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội?”. Giáo sư Hiệp trả lời: “Thưa bác cháu chưa biết”. Ông Trần Nhâm và ông Hà Nghiệp nói: “Anh là chuyên gia về phân kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội mà?”. Ông Dương Phú Hiệp chậm rãi: “Để trả lời câu hỏi này, cho phép cháu kể một câu chuyện ngụ ngôn Nga”. Mặc dầu ông Trường Chinh nói: “Đang làm kế hoạch mà nói chuyện dân gian Nga à?”. Nhưng ông có vẻ thích thú, bước tới đứng sát nơi ông Hiệp ngồi, lắng nghe.
Giáo sư Hiệp kể: Một người đi đường, khi ra tới bìa rừng thì gặp một bác tiều phu, ông dừng lại hỏi: “Bác ơi, khi nào tới bến sông?” Người tiều phu trả lời: “Không biết”. Người đi đường thất vọng bước tiếp và sau khi đi được chừng mươi bước, bác tiều phu gọi giật lại bảo: “Còn bốn giờ nữa”. Người đi đường ngạc nhiên: “Sao nãy bác không nói?” Bác tiều phu: “Khi nãy anh đứng tôi không biết, giờ anh đi tôi mới biết”. Rồi ông Dương Phú Hiệp quay về phía ông Trường Chinh: “Thưa bác, hiện nay ta chỉ dẫm chân tại chỗ chứ không đi nên thật khó trả lời là đến khi nào thì đi hết thời kỳ quá độ”.
Ông Trường Chinh nghe xong, cười và nói: “Đồng chí văn nghệ thì để tôi cũng góp chút văn nghệ”. Ông đọc bài Tiết Lập Xuân của Cao Bá Quát: “Khứ nhật xuân lai phá cựu hàn / Kim chiêu hồng tử đấu thiên ban / Hà đương thế sự như hoa sự? / Phong vũ giang sơn tận cải quan”, rồi đọc phần dịch thơ của ông: “Hôm trước xuân về tan giá lạnh / Sáng nay muôn tía đấu ngàn hồng / Việc đời ví được như hoa nhỉ /Mưa gió qua rồi đẹp núi sông”. Ông nói với anh em giúp việc: “Giờ ta đang khó khăn nhưng đừng bi quan quá. Mây tan, gió tạnh sẽ về thôi”.
Không bi quan không có nghĩa là mũ ni che tai, ông Trường Chinh tìm cách để hiểu những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Một hôm, Giáo sư Dương Phú Hiệp tới trễ. Ông Trường Chinh hỏi thăm, ông Hiệp nói: “Đêm qua cháu phải thức đêm xách nước bác ạ”. Ông chép miệng: “Vất vả nhỉ”. Ông Hiệp nói: “Không phải mình cháu. Các khu tập thể ở Hà Nội đều thiếu nước, người dân phải xếp hàng tới khuya mới hứng được vài xô nước mang về dùng. Bác ạ, bên ngoài người ta đang hát: Đêm đến cả nhà lo việc nước / Sáng ra cả nước lo việc nhà”. Theo ông Trần Nhâm, từ đó, Trường Chinh yêu cầu thu thập những câu nói trong dân gian, đặc biệt là những chuyện tiếu lâm chính trị như là một phần giúp ông hiểu tâm tư nguyện vọng của dân chúng.
Thập niên 1980 có lẽ là giai đoạn để lại nhiều chấn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho người Việt nhất. Những người lính tham gia hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Campuchia không còn có cái hào hùng của những người lính trên đỉnh Trường Sơn năm xưa. Không còn những bộ quân phục vải Tô Châu xanh bền, phải lăn lộn trên các chiến trường giá rét ở phía Bắc, gay gắt ở Tây Nam, bộ ka ki Vĩnh Phú của người lính nhanh chóng rách gối, thủng đít. Bộ đội có sáng kiến cắt ống, quay phần lành lặn từ phía sau lên thay cho đầu gối và gọi đấy là “ưu tiên phía trước”.
Cuộc sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng ký / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học trò không có tập… Đầu thập niên 1980, ở Sài Gòn có khoảng năm vạn sỹ quan, công chức được tha về từ các trại cải tạo. Họ đương nhiên là không thể xin việc làm, chỉ có thể kiếm sống qua ngày bằng cách ra đường. Các sỹ quan cách mạng, những người hùng ngày nào giờ đây cũng: Đầu đường đại tá bơm xe / Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen / Cuối đường thiếu tá buôn kem… Cho dù bộ máy tuyên truyền hoạt động hết công suất nhưng tinh thần của dân chúng dường như không còn có khả năng gượng dậy (511).
Mãi cho tới gần cuối thập niên 1980, ngay tại những thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, người dân vẫn phải xoay xở bằng cách nuôi heo, nuôi cá trê phi để sống. Nhiều người “sống chung với heo” trong những căn hộ chật chội trên tầng năm, tầng tám. Ở Hà Nội, cán bộ viên chức cũng phải xoay xở. Có một giai thoại nổi tiếng về Giáo sư Văn Như Cương: Ông bị người dân trong một khu tập thể ở Hà Nội kiện vì nuôi lợn trong căn hộ của ông ở tầng hai làm mất vệ sinh. Chính quyền khu phố tới nhà phê bình và ghi vào biên bản: “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn ở tầng hai”. Ông không phản đối nhưng trước khi ký nhận chỉ xin sửa lại: “Lợn nuôi Giáo sư Văn Như Cương ở tầng hai”.
Bằng nhiều kênh khác nhau, có khi qua nhóm nghiên cứu, qua những người giúp việc, có khi qua những người trong gia đình hoặc những cán bộ cương trực nói lại, ông Trường Chinh nghe được khá đầy đủ sự ta thán của dân tình. Người dân gọi những năm đầu thập niên 1980 là thời kỳ “Ba-Đồng-Chinh” (512). Có những câu đồng dao được mọi người đọc cho nhau: “Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh / Ba anh có biết dân tình sao không / Rau muống nửa bó một đồng / Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân”.
Theo ông Đặng Xuân Kỳ thì cha ông còn dũng cảm để nghe cả những tiếu lâm chính trị nói trực diện tới mình. Một trong những tiếu lâm đó được kể: Một hôm, ba nhà lãnh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy dân tình nheo nhóc, đói khát, mặt mũi thểu não. Bỗng một người hỏi: “Bây giờ mình ném cái gì xuống thì đám dân ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?”. Bác Đồng nói trước: “Chắc họ đang đói. Hãy ném cho họ mấy bữa cơm không độn”. Bác Chinh cho rằng: “Điều họ thiếu là lý tưởng. Hãy ném cho họ lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Bác Duẩn lắc đầu: “Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ tập thể”. Trong khi ba bác còn chưa thống nhất được nên ném gì cho dân thì anh phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: “Dạ thưa, cháu có ý kiến được không ạ?”. Ông Lê Duẩn nói ngay: “Tại sao không? Cứ phát huy dân chủ”. Bấy giờ anh phi công mới nói: “Dạ, muốn cho đám dân tình dưới đó reo vang hạnh phúc thì chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay thôi ạ”.

Người của những khúc quanh lịch sử
Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình (513).
Tháng 1-1941, Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó, Cao Bằng, sau ba mươi năm “bôn ba”. Tại đây, tháng 5-1941, ông chủ trì Hội nghị Trung ương 8: Trường Chinh chính thức được bầu làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm trưởng Ban Tuyên huấn. Từ đầu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã trở lại Trung Quốc và tháng tám năm ấy bị Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giam. Mọi công việc tuyên truyền chuẩn bị đều do Trường Chinh tổ chức thực hiện. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, là do anh Trường Chinh”. Đặc biệt, trong giai đoạn “tiền khởi nghĩa”, vai trò quyết định là của Trường Chinh. Công cụ cách mạng sắc bén nhất của Trường Chinh giai đoạn này là ngòi bút (514).
Ngày 8-3-1945, sau khi phân tích các nguồn tin, Trường Chinh nhận định: “Nhật sắp lật Pháp”, rồi lập tức triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng tại chùa Đồng Kỵ. Chập choạng tối 9-3-1945, trong cuộc họp có mặt Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân…, khi Tổng Bí thư vừa tuyên bố lý do họp thì tiếng chó rộ lên, đồng thời có người đập cửa dồn dập. Sư cụ cho chú tiểu ra mở cửa, thấy hai bóng người tay cầm đèn pin bước vào. Sư cụ liền: “chào thầy phó, thầy trương” thật to để báo động.
Cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương phải chuyển sang “phương án hai”. Các nhà lãnh đạo Đảng nhanh chóng thu xếp giày dép, khăn áo, chui qua bụi tre sau chùa, theo hướng nam, đi sang làng Đình Bảng. Vừa vượt qua đường xe lửa, tới địa phận Đình Bảng thì nghe tiếng súng nổ dữ dội phía Hà Nội. Ông Trường Chinh reo lên: “Nhật, Pháp bắn nhau rồi anh em ơi!”. Lúc đó là đúng 8 giờ 25 phút tối ngày 9-3-1945. Sau Hội nghị, Trường Chinh lánh sang chùa Dận, viết Chỉ thị: “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”, bản chỉ thị ngay sau đó, được bí mật in ấn để phát đi toàn quốc (515).
Trước khi Hồ Chí Minh từ Trung Hoa trở về Pac Bó, Trường Chinh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, chủ trương lập “bảy chiến khu cách mạng” và “thống nhất các lực lượng vũ trang”. Theo ông Trần Quốc Hương, trước khi lên Tân Trào, biết Hồ Chí Minh đang bệnh, Trường Chinh quay lại ATK ngoại thành, gọi Mười Hương ra nói: “Tôi phải lên chiến khu ngay. Trung ương cần một bác sĩ và một số thuốc để đưa lên ấy phục vụ cách mạng”. Bác sỹ Lê Văn Chánh được Mười Hương tiến cử đã theo ông Trường Chinh mang theo dụng cụ y tế và thuốc men lên Việt Bắc.
Theo dặn dò của ông Trường Chinh, tối 15-8-1945, sau khi biết chắc Nhật xin đầu hàng Đồng Minh, ông Nguyễn Khang triệu tập Hội nghị Xứ ủy gồm: Lê Liêm,Trần Tử Bình, Nguyễn Văn Lộc… Tại làng Vạn Phúc, chỉ thị ngày 12-3-1945, “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trường Chinh lại được đưa ra thảo luận. Sau khi phân tích những điều kiện “tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa” mà Trường Chinh chỉ ra, các ủy viên dự họp đã reo lên: “Thế này là đúng rồi. Ta phải lãnh đạo quần chúng nổi dậy, tổng khởi nghĩa ngay lập tức!”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Bộ để lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa trong phạm vi mười tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Trong khi các đại biểu đang ở Tân Trào để dự đại hội do Hồ Chí Minh chủ trì, các địa phương đã theo chỉ thị của xứ ủy, lần lượt nổi dậy chiếm phủ, huyện rồi tiến vào chiếm tỉnh lị. Ở Hà Nội, Ủy ban Quân sự Cách mạng được thành lập do Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang trực tiếp làm chủ tịch để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Lấy danh nghĩa Kỳ bộ Việt Minh, Xứ ủy ra một bản thông báo cho các địa phương tiến hành khởi nghĩa dành chính quyền. Ngày 19-8-1945, lực lượng của Nguyễn Khang chiếm Phủ Khâm sai (516).
Khi Hà Nội đã rực trong cờ đỏ sao vàng, các đại biểu đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào vẫn chưa rời căn cứ. Xứ ủy Bắc Bộ và Thành ủy Hà Nội lập tức cử đại diện lên chiến khu “mời Bác và trung ương” về, các đại diện này đi đến Thái Nguyên thì gặp ông Trường Chinh, cũng đã nghe tin, đang trên đường từ Tân Trào xuôi về. Chiều ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh và tùy tùng theo đường sông Hồng về đến Chèm. Các cán bộ thuộc “Công tác Đội” đón và bố trí ông ở nhà bà Chánh Hai ở Phú Thượng, một cơ sở của xứ ủy nằm trong ATK (517). Sẩm tối ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh được ông Trường Chinh đón bằng một chiếc xe hơi hiệu Citroen. Chiếc Citroen mang biển số T.A.20 này, hôm 19-8-1945, đã được ông lái xe tên là Nền lái đưa ông Nguyễn Khang đi khắp Hà Nội chỉ huy khởi nghĩa. Sau khi đón ông Trường Chinh từ Phù Đổng về, ông Nguyễn Khang đã giao chiếc xe lại cho tổng bí thư.
Trường Chinh đưa Hồ Chí Minh về 35 Hàng Cân, mặt sau nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng ở Hà Nội. Hàng ngày, sau khi ăn sáng tại nhà Trịnh Văn Bô, Hồ Chí Minh làm việc tại nhà hoặc ra Bắc Bộ phủ. Còn ông Trường Chinh thì từ hôm 26-8 đã tạm dời sang số 6 phố Hàng Đào.
Khi Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp, ông Trường Chinh không nắm giữ chức vụ nào. Trong thời gian Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật, ông làm hội trưởng “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Tại Đại hội Đảng lần II, ông chính thức trở lại làm tổng bí thư, lúc này, Đảng đã đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1953, khi Cụ Hồ đồng ý với Stalin và Mao Trạch Đông thi hành cải cách ruộng đất, Trường Chinh là “trưởng Ban Cải cách Trung ương”. Ba năm sau, tháng 9-1956, khi Trung ương “sửa sai”, ông phải đứng ra nhận lãnh trách nhiệm bằng cách từ chức. Chức vụ nhà nước đầu tiên mà ông được giao là phó thủ tướng chính phủ kiêm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1958). Tháng 7-1960, ông được cử làm chủ tịch Quốc hội, và nắm giữ chức vụ này hơn hai mươi năm. Tháng 7-1981, ông chuyển sang làm chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Thời kỳ này, theo ông Trần Nhâm: “Văn phòng đồng chí Trường Chinh nhận được hàng trăm, hàng ngàn báo cáo, kiến nghị của các cơ quan, các cấp, các ngành và địa phương cùng với thư từ của cán bộ, đảng viên và nhân dân khắp nơi tới tấp gửi về” (518).

Từ chính sách Kinh Tế Mới
Ông Trường Chinh cùng nhóm nghiên cứu của ông đã chọn điểm bắt đầu bằng cách “nhận thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin”. Mô hình “xã hội chủ nghĩa” mà Liên Xô buộc các nước phải tuân thủ (519) đã được chính thức giảng dạy trong hệ thống các trường đảng của Việt Nam (520). Kinh qua những khóa học ở trường đảng là tiêu chuẩn bắt buộc để một người có thể đảm đương các cương vị lãnh đạo chủ chốt (521). Tính đến đầu thập niên 1980, có hơn một triệu người Việt Nam đã được giáo dục về mô hình Stalin ở trong các trường của Đảng. Chỉ có nhân danh chủ nghĩa Marx-Lenin mới có thể làm thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ đó.
Lúc này, các nhà nghiên cứu như Hà Nghiệp, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên đã có một thời gian tiếp xúc với “chính sách kinh tế mới của Lenin”, thông qua những khóa học do các chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Năm 1978, khi nhận ra những hạn chế về lý luận của đội ngũ cán bộ các cấp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bộ Chính trị làm việc với Học viện Chính trị Quốc gia và Viện Quản lý Trung ương, đặt vấn đề phải dạy quản lý kinh tế cho cán bộ cao cấp.
Thời gian này ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đang “dò đá qua sông”, chấp nhận cả “mèo trắng lẫn mèo đen miễn là bắt được chuột”. Vận nước thật trớ trêu – Việt Nam đã không ít lần lệ thuộc Trung Hoa, nhưng đã không “lệ thuộc” những khi Trung Quốc có những bước đi tích cực. Khi ấy Việt Nam đang coi người láng giềng phương Bắc này của mình là “kẻ thù truyền kiếp”. Những thay đổi ở Trung Quốc vào thời điểm đó nếu có xuất hiện trên các diễn đàn của Việt Nam thì cũng chủ yếu để đả kích và phê phán. Trong hoàn cảnh ấy, Hiệp định Hợp Tác Toàn Diện giữa Việt Nam và Liên Xô được ký kết. Theo đó, Liên Xô không chỉ mang đến cho Việt Nam một tỷ rúp mỗi năm mà còn đem theo một đội ngũ chuyên gia hùng hậu.
Đội ngũ chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm các cố vấn quản lý và các chuyên gia nghiên cứu. “Tổng Cố vấn” là ông Paskar, nguyênchủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Nước Cộng hòa Xô viết Moldavia. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, nếu như các cố vấn quản lý như Paskar mang theo não trạng cũ, càng“cố vấn” càng làm cho bộ máy nhà nước Việt Nam vận hành “quan liêu bao cấp” hơn, thì các chuyên gia lý luận lại có công giúp đội ngũ cán bộ Việt Nam tìm được lối thoát về tư duy một cách tích cực. Ngoài hàng ngàn cán bộ đã được đưa đi đào tạo từ dài hạn, trung hạn đến ngắn hạn ở Liên Xô, từ tháng 3-1979, đoàn giảng viên đầu tiên đã đến Việt Nam, mang theo “chính sách kinh tế mới của Lenin”, chính sách được biết đến với tên viết tắt là NEP  (522).
Chính sách kinh tế mới được Lenin đưa ra chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi chính sách “cộng sản thời chiến” xóa hết tư hữu mà ông áp dụng ở nước Nga thất bại. Theo ông Đào Xuân Sâm: Khi áp dụng NEP, Lenin không nói rõ đây là một sách lược tạm thời hay lâu dài. Sau khi Staline lên nắm quyền, NEP không chỉ bị kết liễu mà nó gần như không được nhắc tới ngay cả trong nhà trường. Ở Liên Xô, chỉ những chuyên gia lý luận cao cấp mới có quyền được nghiên cứu NEP.
Cuối thập niên 1980, sau những bế tắc của mô hình cũ, các nhà lý luận Liên Xô bắt đầu đề cập đến Lenin thông qua chính sách kinh tế mới. Tới Việt Nam, Viện trưởng Kinh tế học Liên Xô Abalkin, người về sau trở thành phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã cho rằng sai lầm của mô hình cũ là “phủ nhận thị trường, xây dựng kế hoạch một cách duy ý chí”. Viện sỹ Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô Igor Tikhonov thì coi căn bệnh hợp tác xã cao cấp ở Việt Nam cũng giống như bệnh ở các nông trang tập thể Liên Xô. Một chuyên gia trẻ khác là Kulikov thì viện dẫn Lenin ủng hộ việc sử dụng kinh tế cá thể, tư bản tư doanh và tư bản nước ngoài: “hãy bắt giai cấp tư sản làm nốt sứ mệnh của nó”.
Bài giảng của các chuyên gia Liên Xô táo bạo và mới mẻ tới mức chính Tổng Cố vấn Paskar cũng đã nhiều lần tỏ thái độ không đồng tình. Tuy nhiên, Paskar không thể làm gì vì bản thân các vị viện sỹ hàn lâm này cũng đều là những người thế lực. Igor Tikhonov là em ruột của Nicolas Tikhonov, người lúc đó là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm thì Tikhonov đã nói với ông về các cố vấn quản lý như Paskar: “Bọn này ở bên kia cũng làm khổ tụi tao nhiều lắm”.
Về phía Việt Nam, một số học viên “kiên định lập trường” đã báo cáo lên trung ương. Giới lý luận trong nước cho rằng “Liên Xô sang giảng bài chống lại lý luận của đảng ta”. Ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Phạm Văn Đồng cho người đi nghe về báo lại nhưng cả ba ông đều không có ý kiến gì. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm: “Lúc đó niềm tin với Liên Xô vừa được khôi phục trở lại. Những lý luận đó lại được dẫn từ NEP của Lenin. Nên cho dù trái với Marx, các nhà lý luận cấp tiến ở trung ương đã tự an ủi rằng, đây là sách lược tạm thời, bước lùi tạm thời, khi khá lên lại tập trung hóa, lại xóa tư hữu như Marx nói”.
Hơn 1000 cán bộ Việt Nam đã tham gia các lớp nghiên cứu về NEP trước khi Trung ương bắt đầu có những sửa đổi ở Hội nghị Trung ương 6 vào giữa năm 1979. Đặc biệt, các chuyên gia Liên Xô đã tổ chức năm lớp học cho các cán bộ cấp bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh. Hội nghị Trung ương 6 có cơ sở lý luận hơn để phân tích “những vấn đề kinh tế cấp bách” để “cởi trói” dần cho sản xuất. Theo Giáo sư Trần Đình Bút, phân hiệu trưởng của trường Quản lý Kinh tế Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh, các viện sỹ Liên Xô tham gia giảng dạy NEP ở Việt Nam đã tới tìm hiểu giải pháp “bù giá vào lương” ở Long An và “khoán” ở xí nghiệp đánh cá Côn Đảo – Vũng Tàu. Các vị viện sỹ đã rất đồng tình ủng hộ.
Khác với hai ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, chỉ tiếp cận với các lớp giảng dạy về chính sách kinh tế mới của Lenin thông qua báo cáo, ông Trường Chinh thường xuyên thảo luận với các chuyên gia của mình về những nội dung của NEP. Đặc biệt, từ đầu năm 1983, Trường Chinh liên tục đi tới các địa phương: ngày 10 đến 14-4- 1983, ông đi Đak Lak; ngày 15 đến 19-4-1983 ông tới Gia Lai- Kon Tum; ngày 18 đến 22-7-1983, ông làm việc ở Lâm Đồng; ngày 21 đến 22-8-1983, ông đến khu công nghiệp Biên Hòa; ngày 23 đến 25-8-1983, ông xuống Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo; ngày 11 đến 15-8-1984, sau khi dự Quốc khánh Campuchia, ông về Thành phố Hồ Chí Minh rồi đi khảo sát chính sách “bù giá vào lương” ở Long An (523). Chuyến đi Long An có ấn tượng tốt. Theo ông Trần Nhâm: “Chưa bao giờ tôi thấy vẻ mặt ông rạng rỡ và tinh thần ông phấn chấn đến như thế”. Trong năm 1985, Trường Chinh tiếp tục nghiên cứu thực tế để củng cố tư duy đổi mới của mình: ngày 16 đến 19-1-1985, ông trở lại Thành phố Hồ Chí Minh cùng Nguyễn Văn Linh thăm một số nhà máy, xí nghiệp có cách làm ăn mới mẻ; ngày 20 đến 23-1- 1985, ông trở lại Long An rồi từ đó đi An Giang, Đồng Tháp; chuyến đi kéo dài ba tuần lễ này kết thúc ở Cần Thơ vào ngày 5-2-1985. Cho dù, tháng 8-1985, Trường Chinh còn đi Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và tới tháng 11-1985, ông xuống Hải Phòng, theo ông Trần Nhâm, thực tế sinh động ở miền Nam đã “khắc họa tư duy đổi mới của Trường Chinh”.

Đến chọc thủng thành trì bao cấp
Kết quả nghiên cứu từ thực tiễn tới lý luận của Trường Chinh bắt đầu được ông tung ra tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 3 đến 10-7-1984. Bài phát biểu của ông đã để lại một khoảng cách khá lớn giữa Trường Chinh và các đồng chí của mình. Khoảng cách đó càng bộc lộ rõ khi ý kiến của ông được đặt bên cạnh bài phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Ông Lê Duẩn mở đầu Hội nghị Trung ương 6 bằng một bài phát biểu được chuẩn bị công phu. Tình hình kinh tế lúc ấy đã lâm vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, nhưng bản báo cáo của tổng bí thư vẫn “kiên định”: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đưa ngay nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; lấy kế hoạch làm trung tâm của hệ thống quản lý kinh tế; làm chủ tập thể trong phân phối lưuthông,… Ông cho rằng, kế hoạch “đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng bằng cách cân đối hiện vật” (524).
Ngay sau báo cáo chính trị của tổng bí thư, ông Trường Chinh trình bày một bài phát biểu dài khoảng ba mươi trang, yêu cầu trung ương “nhìn thẳng vào những sự thật trong đời sống kinh tế”. Trường Chinh nói: “Chế độ bao cấp trong những năm qua làm cho bức tranh kinh tế của chúng ta trở thành giả tạo”. Ông cho rằng: “Trên quan liêu nên dưới phá rào… tình trạng báo cáo sai sự thật đang lan tràn ở mọi ngành mọi cấp”. Trước hai hiện tượng tiêu cực, “quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ” và “tự do chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật”, theo ông Trường Chinh, tình trạng“quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ” nguy hiểm hơn.
Ngay tại Hội nghị Trung ương này, ông Trường Chinh đã yêu cầu Đảng, dù muốn hay không “cũng phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường, đó là giá thực tế mà cả xã hội dang phải sống hàng ngày với nó”. Trường Chinh kêu gọi “khôi phục tính chân thật của các hoạt động kinh tế”. Theo ông, bao cấp không những làm cho nhà nước “sa vào công việc sự vụ hàng ngày, làm thay công việc của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bận bịu, tất bật đến nỗi không còn thời gian để suy nghĩ đến việc mình phải cầm lái như thế nào”, mà còn dẫn tới “một hệ thống giá cứng nhắc và quá thấp, gây thiệt hại lớn đến lợi ích quốc gia và người lao động” (525).
Có không ít ủy viên trung ương ngạc nhiên khi “papa” Trường Chinh đưa ví dụ có nơi “lương giáo viên được trả bằng phân bón”. Ông nói trước hội nghị: “Giáo viên mang phân được trả với giá 7 đồng/kg bán ra thị trường với giá 50 đồng/kg để lấy tiền chi cho sinh hoạt”. Theo ông: “Tiền lương của người lao động hiện nay chỉ đủ sống trong mười ngày và đang có xu hướng giảm hơn nữa, kể cả khi được cung cấp các mặt hàng định lượng. Vậy còn hai mươi ngày nữa phải sống sao đây!”.
Khi nghe Trường Chinh nhấn mạnh: “Giải quyết tiền lương lúc này, chính là giải quyết sản xuất, đồng thời cứu lấy giai cấp công nhân”, những người có mặt ở Hội nghị Trung ương 6 đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt. Trước đó, khi ông Trường Chinh nhắc đến cụm từ “tự động xé rào”, cả hội trường cười ầm lên. Bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 6 của Trường Chinh làm cho nhiều ủy viên trung ương “sửng sốt”. Ông Phạm Văn Đồng thừa nhận: “Anh Thận nói làm tôi rợn người”. Ngay sau hội nghị, các ngành, các địa phương đã phổ biến, truyền tụng những quan điểm chính yếu trong bài phát biểu này.
Theo ông Hà Nghiệp, quan điểm của ông Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương 6 rất khác với bản báo cáo của ông Lê Duẩn, nhưng đấy không phải là một cuộc đụng độ. Cho dù uy tín của Trường Chinh là rất lớn trong dân, trong Đảng, nhưngtrước khi đưa ra Trung ương, ông vẫn thường trực tiếp cầm bài phát biểu của mình sang trao đổi với ông Lê Duẩn (526). Vào thời điểm ấy, sức khỏe của ông Lê Duẩn đã bắt đầu giảm sút. Có lẽ điều ông quan tâm lớn nhất là hệ thống hóa tư duy lý luận của mình, nên thay vì nắm bắt những gì đang diễn ra, bản báo cáo dài hơn bảy mươi trang của ông chủ yếu xoay quanh “mười quy luật kinh tế rường cột” đậm chất kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa mà mà ông đã nghiên cứu từ thời viết Dưới Ngọn Cờ Vẻ Vang Của Đảng (527).

Giá-Lương-Tiền
Sau Hội nghị Trung ương 6, nhiều địa phương bắt đầu áp dụng thử chính sách “bù giá vào lương và tính đủ giá thành vào sản phẩm”. Kết quả trên thực tế diễn ratích cực không ngờ. Năm tháng sau đó, tại Hội nghị Trung ương 7, họp từ ngày 10 đến 17-12-1984, Trường Chinh kêu gọi: “Dứt khoát bãi bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Phải mổ xẻ và loại bỏ cái ung nhọt này càng sớm càng hay. Không một chút gì đáng để chúng ta luyến tiếc”. Hội nghị Trung ương 7 đã nhất trí với đề nghị của ông Trường Chinh, cho thành lập Tiểu Ban Nghiên cứu Giá-Lương-Tiền, chuẩn bị đề án trình Hội nghị Trung ương 8.
Hội nghị Trung ương 8, tháng 6-1985, đã coi việc giải quyết giá-lương-tiền là “khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinhdoanh xã hội chủ nghĩa”. Hai tháng sau khi có nghị quyết, số lượng các địa phương làm thử bù giá vào lương lên đến hai mươi tám tỉnh, thành; mười hai tỉnh, thành khác cũng tích cực chuẩn bị. Người đứng đầu “Bộ Tham mưu” cải cách Giá-Lương- Tiền là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, một chuyên gia hàng đầu của bộ máy kế hoạch hóa tập trung; giúp việc ông là sáu bộ trưởng và tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Ông Hà Nghiệp gọi ông Trần Phương là người “cấp tiến nhất trong phe bảo thủ”. Còn ông Trần Phương thì thừa nhận: “Khi đó bọn mình nghĩ về giá còn ngây thơ lắm”.
Sở dĩ các địa phương như Long An, Hải Phòng,… thí điểm bù giá vào lương thành công là nhờ mức bù giá căn cứ trên giá bán được “những hiện vật tính thành lương” như xà bông, vải, gạo, thịt,… Trong khi, để thực hiện Nghị quyết 8, ngày 10-8-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 28: phê chuẩn mức giá mua thóc từ 15-18 đồng/kg, ở vùng thuận lợi từ 26-28 đồng/kg ở vùng khó khăn; phê chuẩn mứclương tối thiểu cho cán bộ công nhân viên 2.200 đồng/tháng… Mức giá mua thóc lên đến từ 26-28 đồng/kg là dựa trên ý kiến của chính ông Trương Chinh trong khi mức giá được đề nghị là 10 đồng/kg. Ông Trường Chinh đã đúng khi cho rằng nếu mua thóc với giá mười đồng thì vẫn theo tư duy bao cấp. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, từ chuẩn giá thóc như vậy, các loại vật tư hàng hóa khác cũng phải điều chỉnh tăng lên khoảng mười lần.
Theo ông Trần Phương: “Đầu thập niên 1980, Việt Nam có một triệu rưỡi quân, hai triệu cán bộ công nhân viên chức và mười triệu dân thành phố. Để cung cấp lương thực, thực phẩm cho lực lượng này, Bộ Nội thương đã phải ép nông dân để mua thóc và lợn với giá chỉ bằng một nửa giá mà người dân trao đổi với nhau ngoài chợ. Với tư cách một nhà nghiên cứu, tôi chống lại điều phi lý đó. Ngay từ năm 1981, khi làm bộ trưởng Bộ Nội thương, tôi đã yêu cầu phải sửa giá chuyển sang giá thỏa thuận, sửa giá toàn bộ và sửa lương. Đề án của tôi trình ra như một quả bom, các bộ ai cũng run. Lê Duẩn kết luận: phải theo kế hoạch nhưng giá phải theo thị trường”.
Đề án “Giá-Lương-Tiền” năm 1985 của Trần Phương “dè dặt hơn” Đề án 1981 vì theo ông: “Quỹ hàng hóa năm 1985 eo hẹp hơn”. Thời gian này, ông Lê Duẩn ốm, vài tháng phải sang Liên Xô điều trị một lần. Theo thường lệ, “nhân vật số hai” Trường Chinh thay thế chủ trì các hội nghị Bộ Chính trị. Trường Chinh kết luận: Làm ngay một bước, không làm từng bước, theo đề án của mình. Nhưng, khi ra Hội đồng Chính phủ, bộ trưởng Bộ Cơ khí tuyên bố nếu giá bán vật tư như vậy thì các xínghiệp cơ khí sẽ phải đóng cửa, các bộ trưởng khác cũng nói, nếu làm ngay một giá hàng công nghiệp không bán được. Ông Phạm Văn Đồng kết luận: “Vật tư công nghiệp lấy bằng 70% giá thị trường”. Thực tế cho thấy nhà nước nắm hai khối hàng và trong khi hàng công nghiệp bán ra chỉ bằng 70% giá thị trường, phải mua lại nông sản với giá bằng 100% thị trường. Chưa làm đã thấy quỹ hàng hóa công nghiệp bán sẽ không đủ bù mua quỹ hàng nông nghiệp.
Mất cân đối về lý thuyết lại xuất hiện thêm khi ông Võ Chí Công chủ trì một hội nghị của Ban Bí thư với các địa phương. Đề án bỏ lương hiện vật bằng tiền lương, nhưng theo tính toán thì chỉ có thể tăng lương lên 20%. Các tỉnh nói mức lương đó chỉ đủ ăn một tuần, các tỉnh miền Nam đề nghị tăng lương lên bằng 100%. Trần Phương phản đối thì Võ Chí Công nói: “Tôi thật không hiểu anh Phương. Mức lương này sao sống được?”. Trần Phương: “Thưa anh, tôi hiểu mức lương này sống rất khốn nạn, nhưng nhà nước đang không có tiền”. Cho dù ngân sách không có, Võ Chí Công vẫn kết luận: “Chấp nhận đề án do các tỉnh miền Nam đề nghị, tăng lương tối thiểu lên 100%”. Chính hai quyết định trên đây đã dẫn tới lạm phát.
Theo mức giá mới, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nền kinh tế cần phải có một lượng tiền mặt lên tới 120 tỷ đồng để lưu thông. Nhưng lượng tiền phát hành trênthực tế chỉ mới có khoảng sáu mươi tỷ đồng, lấy đâu ra thêm sáu mươi tỷ đồng tiền giấy? Theo ông Trần Phương, tháng 8-1985, nhân có mười hai tỷ đồng tiền mới được in từ Đông Đức đưa về, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nếu in thêm cho đủ lượng tiền cần thiết thì không thể kịp và tốn kém nên quyết định nâng mệnh giá đồng tiền mới này lên mười lần rồi đổi tiền để biến mười hai tỷ đồng thành 120 tỷ đồng, thỏa mãn nhu cầu lưu thông theo “Giá-Lương-Tiền” mới.
Ông Trường Chinh không đồng tình với cách làm này. Ngày 29-8-1985, ông gửi thư tới Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và các phó của ông Đồng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Tố Hữu. Thư Trường Chinh viết: “Riêng về tiền, sắp tới có mười hai tỷ đồng tiền mới, tương đương với 120 tỷ đồng hiện nay. So với lương mới và giá mới sắp tới thì số tiền đó là chưa đủ, tiền sẽ tiếp tục căng thẳng. Nên chăng đề nghị các anh tính lại, không đổi tiền mà cho lưu hành song song hai đồng tiền với tỷ lệ một đồng mới ăn mười đồng cũ. Như vậy, có thêm hơn sáu mươi tỷ đồng hiện nay cứ cho tiếp tục lưu hành, lặng lẽ thu hồi và hủy dần khi có tiền mới về tiếp, tránh được căng thẳng về tiền mặt, bảo đảm yêu cầu của sản xuất, thu mua, kinh doanh đang chuyển theo cơ chế mới, không gây xáo trộn về tâm lý” (528). Thư gửi đi chưa được trả lời, ngày 1-9-1985, khi họp Bộ Chính trị, Trường Chinh lại nhắc lại đề nghị trên. Phạm Văn Đồng giải thích: “Ý kiến Anh Năm cũng hợp lý, nhưng mọi việc đã chuẩn bị hết cả rồi. Chúng ta đang cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được nữa”. Theo Trần Nhâm: “Ông chấp hành quyết định của Bộ Chính trị và sáng ngày 3-9-1985, nhân danh là chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Trường Chinh đặt bút ký sắc lệnh đổi tiền mà trong lòng rất áy náy”.
Tuần lễ sau đó, tiền mặt được vận chuyển vào Nam qua sân bay Tân Sơn Nhất; các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh không bán các mặt hàng cao cấp; các ngân hàng không nhận tiền nộp vào. Ngày 11-9-1985, phần lớn nhân viên ngân hàng bị giữ lại trụ sở. Tin tức đổi tiền bắt đầu lọt ra. Trong khi đó, ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ vẫn chạy tít lớn trên trang nhất: “Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương”. Bài báo đanh thép tuyên bố: “Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để”.
Để rồi, sáng 14-9-1985, hệ thống loa truyền thanh giăng mắc khắp các góc phố bắt đầu thông báo lệnh đổi tiền. Chính báo Tuổi Trẻ, trong số kế tiếp, ra ngày 14-9- 1985, cũng đăng quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm văn Đồng về việc “phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền cũ”. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải lên báo giải thích: “Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động”.
“Quyết định đổi tiền không phải là hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người dân. Ấy thế mà lúc sáu giờ sáng thứ bảy, ngày 14-9, khi nghe loa truyền thanh trên đường phố tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam bắt đầu thông báo chương trình phát thanh đặc biệt kéo dài đến 7 giờ 15 thì những người ra đường sớm đều dừng lại, đứng chụm nhum thành từng nhóm để nghe cho hết từng quyết định, thông báo. Và từ đó, tinđổi tiền thành đề tài số một ở tất cả mọi nơi, của tất cả mọi người” (529).
Không sững sờ sao được khi cả thành phố gần bốn triệu dân, chính quyền chỉ thiết lập 900 bàn đổi tiền và chỉ cho “nhân dân lao động” có một khoảng thời gianrất ngắn, trong vòng từ sáu đến mười hai giờ trưa ngày 14-9, để kê khai; người dân chỉ được kê khai một lần và chỉ được đổi ngay một phần. Theo quyết định do Phạm Văn Đồng ký ngày 13-9-1985: mỗi hộ gia đình được đổi ngay tối đa 2.000 đồng tiền mới; mỗi hộ độc thân và mỗi người trong hộ tập thể (bộ đội, công an, cơ quan nhà nươc) được đổi ngay tối đa 1.500 đồng; mỗi hộ kinh doanh có môn bài bậc cao được đổi ngay tối đa 5.000 đồng tiền mới. Đối với số vượt mức đổi ngay thì nộp cho bàn đổi tiền, lấy biên nhận, Ban Chỉ đạo Thu Đổi Tiền cấp tỉnh, thành phố, quận huyện sẽ xem xét và giải quyết sau. Đặc biệt: “Số tiền mặt do đầu cơ, buôn lậu, nhận tiền phân tán và do nguồn thu nhập bất chính khác đều bị tịch thu, nhập vào tài khoản của ngân sách”.
Hàng nghìn câu chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra do cách mà nhà nước đối xử với tiền bạc của người dân theo kiểu đánh úp này. Do có hộ chỉ có bốn mươi đồng tiền cũ để đổi nên “dịch vụ” đổi tiền giúp đã phát sinh giữa những người không có lượng tiền mặt vượt quá mức 2.000 đồng tiền mới với các gia đình giàu có. Bằng kinh nghiệm lần đổi tiền thứ nhất trong “Chiến dịch X3”, biết trước tương lai mất giá của những đồng tiền “vượt mức đổi ngay” nộp cho ngân hàng rồi chờ “xem xét giải quyết sau”, nhiều người đã tung tiền ra mua hàng.
Theo Sài Gòn Giải Phóng, ngay trong sáng 14-9-1985, ở chợ An Lạc, giá một con vịt lên tới 3.000 đồng tiền cũ; một ký thịt heo lên tới 2.000 đồng, trong khi một ký thịt heo nạc bán trước ngày đổi tiền chỉ là 325 đồng tiền cũ. Trước chín giờ sáng ngày 14-9-1985, các đội kiểm soát đã bắt “một gian thương” mua gom chín tấn gạo. Cũng trong buổi sáng, Quản lý Thị trường đã “phát hiện” tại Quận 10 “một hộ đầu cơ phụ tùng xe đạp; một hộ chứa vải bất hợp pháp; một hộ buôn vàng và đá quý, tịch thu một khối lượng tiền mặt lên tới 380.000 đồng tiền cũ”.
Bi kịch cũng không tha các cơ quan nhà nước. Ngân hàng biết trước chuyện đổi tiền từ trước đó, không những đã không chịu thu tiền về mà còn tìm cách dí tiền mặt xuống cho các cơ quan, đơn vị. Ông Trần văn Thêm, giám đốc Dệt Bình Minh kể: “Sáng 13-9-1985, ngân hàng ấn cho chúng tôi gần một triệu đồng, bây giờ chúng tôi phải vất vả giải trình” (530). Ngay trong ngày 15-9, nhiều xí nghiệp đã phải ngưng hoạt động vì tiền cũ nộp, đi tiền mới chưa được cầm, không có tiền lo bữa ăn giữa ca cho công nhân. Dệt Bình Minh có 900 công nhân, chỉ nhận được 5.000đồng. May Hòa Bình nhận được 2.500 đồng. Tình cảnh của nhiều cá nhân, đặc biệt là với những người đang bị xếp vào diện “khách vãng lai”, thì lại còn bi kịch hơn gấp bội.
Vài ngày sau đổi tiền, ông Võ Văn Kiệt gửi thư báo cáo Phạm Văn Đồng và ông Trường Chinh: “Kết quả của việc đổi tiền cho thấy tiền nằm trong nhân dân tương đối ít, số hộ có số tiền đổi thấp là khá đông, cho chúng ta một kết luận đáng suy nghĩ và day dứt về mức sống của nhân dân lao động hiện nay. Một kết quả khác cho thấy tiền nằm trong tay tư sản không đáng kể, chúng ta đã ‘đánh hụt’ vì để cho bọn chúng quá nhiều thì giờ để chuẩn bị đối phó, thẳng tay thu gom, vơ vét hàng của nhà nước và chuyển tài sản từ tiền ra những giá trị khác” (531).
Cũng theo ông Võ Văn Kiệt: “Chúng ta có nhiều sơ hở trong vụ đổi tiền, gây nên những hậu quả bất lợi đáng quan tâm. Sự thiếu bảo mật đã làm cho hàng của nhà nước tuồn hết về người có tiền, tiền của các hộ buôn bán lớn chuyển hết cho các xí nghiệp, công ty nhà nước, và thương nghiệp bị rút hết hàng nhanh chóng, suy yếu khả năng chống đỡ trên thị trường. Chúng ta không thực sự chuẩn bị cho một vụ đổi tiền, một đồng mới ăn mười đồng tiền cũ, không chuẩn bị một cơ cấu giấy bạc của tiền mới thích nghi với nhu cầu thanh toán nhỏ. Giả dụ rằng chúng ta chỉ phát hành đến mức năm mươi đồng tiền mới và nhiều đơn vị tiền lẻ, tình hình có lẽ đỡ xấu hơn”.
Sau khi tiền mới được tung ra, giá cả tăng còn nhanh hơn ngựa chạy. Ngay trong ngày 15-9-1985, Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phải tổ chức hội thảo và sau đó cho lập các “đội thanh niên kiểm tra giá”. Ủy ban Nhân dân Thành phố tuyên bố “Rút giấy phép kinh doanh những ai bán phá giá”. Nhưng giá cả đã tỏ ra không hề sợ hãi chính quyền. Nhiều người dân khi nhận được đồng tiền mới, sức mua đã giảm hàng chục lần khi họ giao tiền cũ cho nhà nước. Tình hình xấu đi trông thấy: ngân hàng thiếu tiền, thương nghiệp thiếu hàng, công nghiệp thiếu vật tư, công nhân đói vì cầm đồng tiền mất giá, nông dân khóc vì phải bán nông sản với giá thấp hơn chi phí bỏ ra. Sản xuất giảm. Đầu tư nhà nước giảm. Chỉ số giá bán lẻ trên thị trường tự do năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985.
Lạm phát chưa phải là thảm họa duy nhất của nền kinh tế. Như ông Kiệt phân tích, mệnh giá thấp nhất của đồng tiền mới tự dưng bị nâng lên gấp mười, mộtđồng tiền mới có sức mua theo lý thuyết bằng mười đồng tiền cũ. Cho dù loại giấy bạc từ mười đồng tiền cũ trở xuống vẫn còn được lưu thông, nhưng nếu dùng một đồng tiền mới để mua một que kem thì phải nhận thối về một ôm tiền lẻ. Sự bất mãn tăng nhanh trong xã hội.
Tháng 12-1985, Quốc hội khóa VII triệu tập kỳ họp thứ 10. Trước khi ra Hà Nội, đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cửu Long quyết định phải “nã pháo” vào Giá-Lương- Tiền. Người nhận lãnh trách nhiệm này, bà Đào Thị Biểu, với biệt danh là bà Sáu Trầu, kể lại: “Trước khi đi họp, anh Trịnh Văn Lâu, trưởng đoàn hỏi: ai dám phát biểu? Nhiều người xung phong. Nhưng anh nói, vấn đề gay gắt lắm, phải có giọng nữ nhẹ nhàng, nói năng từ tốn, thành tích kháng chiến tốt, phải dũng cảm, có thể ‘hy sinh’. Tôi nghĩ mình phát biểu là đem ý dân gửi cho Đảng, để dân mất lòng tin vào Đảng là mình có tội. Thế là tôi nhận”.
Bài phát biểu đã được chuẩn bị sẵn từ ở nhà và đã nộp cho chủ tịch đoàn Quốc hội đăng ký tham luận theo nguyên tắc của thời kỳ đó. Nhưng, theo bà Sáu Trầu,Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, khi đọc “Báo cáo Tình hình Kinh tế Xã hội” trước Quốc hội, đã “đổ thêm dầu vào lửa” bằng cách phê bình các địa phương “không biết phát huy thế mạnh đổi tiền”. Lúc đó, theo bà Sáu Trầu: “Giá tăng cao gấp mười lần. Lương người sản xuất thấp lẹt đẹt, còn lương kinh doanh cao ngút trời. Tiền thì không có tiền lẻ; mua thuốc, ăn hủ tiếu… phải thế lại giấy chứngminh. Giá vé xe đò tăng cao gấp năm đến bảy lần, nhiều người về xa không đủ tiền phải nằm lại bến. Cuộc sống xã hội đầy khó khăn như phơi bày ra đó, cử tri cực kỳ bức xúc. Phải chăng đó là ưu thế!”.
Bà Sáu và đoàn đại biểu Quốc hội Cửu Long quyết định viết lại bài phát biểu, nói thẳng vào vấn đề hơn. Trước khi lên diễn đàn, bà Sáu Trầu dặn các đồng chí của mình: “Gia đình tôi năm người tham gia cách mạng, hy sinh hết bốn rồi, giờ dẫu có ‘hy sinh’ thêm nữa thì cũng chẳng sao. Nếu tôi có bị sao thì nhớ chăm sóc con tôi và giáo dục nó sống tốt, xứng đáng như mẹ nó”.
Ngày cuối cùng của kỳ họp, trước giờ bế mạc, bà Sáu – với hình ảnh được gần 500 đại biểu ghi nhớ: “một phụ nữ miền Nam phúc hậu, ăn trầu bỏm bẻm” – bước lên diễn đàn, chất vấn thẳng vào vấn đề: “Chúng tôi cho rằng mười năm qua chưa lần nào dân xôn xao, bất bình, thậm chí phẫn nộ bằng đợt phá giá-lương-tiền vừa qua. Chúng tôi đã chứng kiến biết bao cảnh các cửa hàng ách tắc, bao nhiêu cuộc cãi vã xô xát, bao nhiêu tiêu cực: vo tròn giá hay nâng giá vì thiếu tiền lẻ và mua bán tiền lẻ… Trung ương nói địa phương không biết phát huy ưu thế sau đổi tiền, nhưng ưu thế gì mà phát huy? Giá cả tăng năm, bảy lần so với trước, có thứ gấp mười, mười lăm lần, đội rất xa giá thị trường. Chúng tôi chứng kiến cảnh bắt và tịch thu hàng của người tự sản, tự tiêu vì bán giá thấp hơn giá nhà nước quy định, đạo lý gì phải làm như vậy? Đồng chí Đỗ Mười nói rằng tỷ giá công nông hiện nay đã rất hợp lý, thậm chí nông dân còn có lợi nhiều hơn trước. Chúng tôi chưa nhất trí với nhận định đó”. Bà Sáu Trầu nói tới đâu “cả hội trường vỗ tay rần rần” đến đó. Hôm ấy, khi bà Sáu về phòng, nhiều đoàn đại biểu Quốc hội gõ cửa và tặng bà rất nhiều… trầu cau. Bà Sáu Đào Thị Biểu nói: “Họ đồng cảm vì khó khăn ở đâu cũng vậy nhưng chưa dám nói”.
Sau kỳ họp này, ông Trần Phương nhớ lại: Tôi quyết định phải từ chức nhưng khi chia sẻ điều này với Đồng Sỹ Nguyên, Bộ trưởng Bộ Giao thông Đồng Sỹ Nguyên nói: “Nếu từ chức, phải từ chức cả Hội đồng Bộ trưởng”. Tôi bảo: “Đằng nào cũng phải có người chịu trách nhiệm. Nếu mình tôi chịu trách nhiệm được với dân thì không nhất thiết phải kéo thêm nhiều người”. Trần Phương bị kỷ luật, nhưng ngay từ lúc đó, dân gian đã nói: “Đổi tiền là chuyện Triều đình / Cớ sao chịu tội một mình Trần Phương”.
Sự nghiệp chính trị của ông Trường Chinh có những tình huống thật éo le. Phản đối đổi tiền, nhưng khi không thuyết phục được Bộ Chính trị, sáng 3-9-1985, ông vẫn nhân danh chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký sắc lệnh đổi tiền. Là một trong những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Trường Chinh đồng thời cũng phải phục tùng cái tập thể mà ông lãnh đạo đó. Là người đưa ra “thuyết ba giai đoạn” trong Đại hội II, năm 1951, theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất, nhưng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận sức ép của Mao Trạch Đông và Stalin, vội vàng cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn nhận trách nhiệm chủ tịch Ủy ban Cải cách Ruộng đất. Để rồi khi Hồ Chí Minh “sửa sai”, ông lại một mình mất chức.
Ông Trần Nhâm viết: “Sau khi Trường Chinh ký Sắc lệnh Đổi tiền, khắp nơi gửi thư đến phàn nàn, nhiều cán bộ cách mạng lão thành gặp ông trách cứ: sao quan điểm của anh đổi mới thế mà việc làm của anh lại khác như vậy? Ông cười xòa nói: đó là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải của một cá nhân nào. Ông thà chịu đựng trước búa rìu của sự phê phán đối với cá nhân ông, chứ không bao giờ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồi Cải cách ruộng đất cũng vậy, ông tự phê bình nghiêm khắc, tự nguyện rút khỏi cương vị tổng bí thư. Ông thường tâm sự với chúng tôi: làm cách mạng không phải lúc nào cũng suôn sẻ, có việc muốn làm thì không làm được, có việc không nên thì lại cứ làm, người ta ai nói gì thì tùy họ, miễn là không thẹn với lòng. Việc đổi tiền ông đã làm hết sức mình để ngăn không cho nó xảy ra, nhưng cuối cùng nó vẫn xảy ra” (532).
Sau “Giá-Lương-Tiền”, có ý kiến cho rằng thất bại của tổng điều chỉnh Giá-Lương-Tiền có nguyên nhân từ Nghị quyết Trung ương 8. Tại Hội nghị Trung ương 9, họp từ ngày 9 đến 16-12-1985, Trường Chinh cho rằng Nghị quyết Trung ương 8 là “nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất và có hiệu quả cao nhất. Song, điều đáng tiếc là trong chỉ đạo thực hiện, chúng ta đã phạm một loạt sai lầm, khuyết điểm… Chúng ta đã nặng về điều chỉnh mặt bằng giá và lương mà coi nhẹ đổi mới cơ chế quản lý… Nghị quyết Trung ương Tám chưa được triển khai thực hiện tốt, cơ chế quản lý mới chưa kịp hình thành thì đùng một cái chúng ta đã tiến hành đổi tiền trong thế bị động. Lẽ ra có thể giải quyết việc thiếu tiền theo cách khác” (533).
Quan điểm của Trường Chinh tiếp tục có thêm thành viên trong Bộ Chính trị đồng tình ủng hộ. Ngày 19-2-1986, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong một phiên họp của Bộ Chính trị (534): “Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội và sức mạnh của nền chuyên chính vô sản cũng không thể đi ngược lại với những quy luật kinh tế…”. Ông Thạch cho rằng: “Một chính sách của nhà nước vừa ban hành là người dân cần phải tính toán ngay để quyết định sản xuất cái gì, mua cái gì. Nhưng bộ máy tính giá của Ủy ban Vật giá phải mất một năm mới tính toán xong. Hệ thống giá cả đó gửi đi mỗi tỉnh tốn mỗi năm bốn mươi tấn giấy”. Ông Thạch nêu ví dụ điển hình về tính phi lý của giá: “Giá báo Nhân Dân rẻ quá đưa đến tình trạng con buôn mua gom báo để làm giấy gói hàng còn người cần đọc báo thì không còn báo”.
Trước thềm Hội nghị Trung ương 10, Trần Phương gửi tới các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương một bản giải trình dài chín mươi hai trang, tiếp tục bảo vệ quan điểm “quy tội” cho Nghị quyết 8. Nhóm chuyên gia của Trường Chinh, trực tiếp là Trần Đức Nguyên, lập tức làm việc suốt ngày đêm chuẩn bị cho Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Lam một bài phát biểu ba mươi trang, lần lượt phản bác lại “giải trình chín mươi hai trang” của Trần Phương. Tháng 6-1986, Hội nghị Trung ương 10 kết luận chính thức: “Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và các Nghị quyết 28, 31 của Bộ Chính trị về Giá-Lương-Tiền là đúng đắn”.

Nã pháo vào bộ tổng
Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 cho thấy khuynh hướng đổi mới mà Trường Chinh khởi xướng đang thắng thế, cho dù từ đầu năm 1986, Trường Chinh bắt đầu gặp phản công. Có lẽ do uy tín của Trường Chinh trong Đảng quá lớn, và do ông đã rất chặt chẽ khi bắt đầu tiến trình đưa ra các quan điểm của mình, nên không ai dám có phản ứng đích danh.
Nhưng đầu năm 1986, khi Giáo sư Đào Xuân Sâm, một chuyên gia trong nhóm Trường Chinh, công khai đưa ra khái niệm “thị trường có tổ chức”, nó đã bị coi như là một “quả bom” vì động đến nơi linh thiêng nhất của nền kinh tế kế hoạch hóa.
Sau khi cho rằng không thể “lẩn trốn thị trường” nếu muốn thoát ra khỏi “quan liêu bao cấp”, Đào Xuân Sâm đã dẫn câu nói của Lenin: “Đi với chó sói thì phải gào lên”.
Tháng 3-1986, Ban bí thư tổ chức hội thảo, giáo sư Đào Xuân Sâm được mời và ông có bài phát biểu: “Kinh doanh xã hội chủ nghĩa và quyền tự chủ của người kinh doanh”. Một số nhân vật trong Ban Bí thư khen phát biểu ấy nên báo Nhân Dân lấy đăng ở mục Diễn đàn liên tiếp ba số báo từ ngày 17 đến 19-3-1986. Nhưng theo giáo sư Đào Xuân Sâm: “Đúng lúc ấy Bộ Chính trị họp, Đỗ Mười, Tố Hữu phê phán rất căng. Đỗ Mười nói: thằng này nã trọng pháo vào bộ Tổng”.
Ngày 20-3-1986, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước Phan Văn Tiệm nhận xét trong một cuộc giao ban của ủy ban: “Những biện luận của vị giáo sư trên báo Nhân Dân mấy ngày qua chỉ là một suy nghĩ ngông cuồng”. Báo Nhân Dân sau đó cũng liên tiếp viết bài phê phán quan điểm của Đào Xuân Sâm, cùng lúc, các tạp chí như Nghiên cứu Kinh tế, Thông tin Lý luận đăng nhiều bài lên án. Các “nhà lý luận kiên định” coi Đào Xuân Sâm như là một “Otar Sik (535) của Việt Nam”. Cho dù ông không có được một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về “tự do hóa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường” như Otar Sik, giới nghiên cứu chính thống và Học viện Nguyễn Ái Quốc vẫn muốn xếp ông vào diện “xét lại”.
Bài viết của Đào Xuân Sâm còn bị các chuyên gia Liên Xô phê phán, nhất là sau khi Trưởng đoàn Paskar có buổi làm việc trực tiếp với Phó Chủ tịch Hội đồng Bộtrưởng Đỗ Mười. Ngày 8-5-1986, sau hơn một tháng trở lại Việt Nam, đoàn Chuyên gia Kinh tế Cao cấp Liên Xô đã gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, các Phó Chủ tịch: Võ Chí Công, Tố Hữu, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt. Phía Liên Xô, ngoài Đại sứ Sepplin, Cố vấn trưởng Paskar, còn có ba tiến sỹ, trong đó có viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế toàn Liên Bang, ba phó tiến sỹ khoa học kinh tế và những chuyên gia có kinh nghiệm khác.
Sau khi ghi nhận những “chuyển biến quan trọng”, Paskarđã chỉ ra nhiều “thiếu sót nghiêm trọng” trong phát triển kinh tế536. Về công nghiệp, Paskar cho rằng: “một số ngành sản xuất đang đi chệch những chỉ tiêu kế hoạch; nhiều nhà máyđược xây dựng chỉ sử dụng 50% công suất”. Về tình trạng cung cấp vật tư, Paskar phê phán những thành quả “xé rào”. Paskar cho rằng “khó khăn của xí nghiệp, nhà máy là ở chỗ, các xí nghiệp có quyền mua bán vật tư theo giá thỏa thuận”. Sau khi cảnh báo hiện tượng “chưa tập trung đúng mức quyền lực vào trung ương”, ông nói: “Chúng tôi theo dõi cuộc tranh luận trên báo chí ở Việt Nam; hình như có những người phê phán trung ương tập trung quan liêu làm cho địa phương không hoạt động được”.
Sau khi nhấn mạnh “quyền lực của nhà nước trung ương”, cố vấn Paskar nói: “Chúng tôi cảm thấy Việt Nam hiện đang có hai trào lưu: trào lưu phi tập trung hóa, giao thêm quyền lực cho địa phương và giao lưu thông phân phối cho thị trường tự do; trào lưu thứ hai là tập trung quyền lực và kế hoạch”. Dừng lại một chút, Paskar tuyên bố: “Chúng tôi gia nhập trào lưu thứ hai này!”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng phụ họa: “Không thể khác được đồng chí Paskar ạ!”. Võ Chí Công bổ sung: “Trào lưu thứ nhất chỉ có một ít thôi. Bài báo của Đào Xuân Sâm là sai. Chúng tôi đã cấm và kiểm điểm tòa soạn”. Paskar phấn khởi: “Chúng tôi muốn nói tới bài báo đó. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu giao lưu thông phân phối cho tư thương. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu sản xuất không có kế hoạch. Từ bỏ kế hoạch thì chủ nghĩa xã hội chỉ còn khẩu hiệu, không ai thừa nhận đó là chủ nghĩa xã hội”. Paskar kết thúc cuộc họp: “Bây giờ phải tăng cường kỷ luật lập lại trật tự”. Khi ấy, Liên Xô đang cấp cho Việt Nam mỗi năm một tỷ rúp.

Khép lại trang sử Lê Duẩn
Cho dù ở trường Nguyễn Ái Quốc, quy trình phong hàm giáo sư cho ông Sâm bị trì hoãn sau nhận xét của Đỗ Mười và Cố vấn Paskar, Đào Xuân Sâm tiếp tục được mời tới các cuộc thảo luận trong nhóm nghiên cứu của Trường Chinh. Tình hình đất nước vào thời điểm ấy đã vô cùng nguy ngập. Trường Chinh biết rõ Đảng đang ở trong tình thế “đổi mới hay là chết”. Trong cuộc đời của làm cách mạng của mình, đây chính là cơ hội để Trường Chinh khắc phục những sai lầm không chỉ là của Đảng mà cả của chính cá nhân ông nữa.
Theo ông Trần Nhâm: “Sáng 29-9-1988, một ngày trước khi ông Trường Chinh mất, khi làm việc với ông, tôi có hỏi, tại sao khi đó bác lại làm lớn chuyện ‘khoán Vĩnh Phú’ lên vậy? Ông điềm tĩnh trả lời tôi rằng có lẽ lúc bấy giờ nhận thức của mình không bắt kịp thực tế, trong khi những thông tin được báo cáo lên lại không chính xác” (537).
Ông Trần Phương cho rằng: “Trường Chinh đổi mới như thế là quá chậm, sau hai mươi lăm năm thôi chức tổng bí thư, có thời gian nghiên cứu hơn, nhưng cũng phải tới gần cuối đời, ông mới giác ngộ được. Nếu khi giải phóng miền Nam mà Trường Chinh cũng nhìn được như Lê Duẩn thì tình hình đã khác. Khi đó, Lê Duẩn nhận ra không thể áp dụng chính sách kinh tế ở miền Nam giống như những gì đã làm ở miền Bắc. Nhưng nhìn qua nhìn lại không có ai đồng tình, Trường Chinh thì im lặng”. Ông Trường Chinh không chỉ bỏ qua cơ hội sau năm 1975. Cuộc cải cách lần thứ nhất ở Hội nghị Trung ương 6, khóa IV năm 1979, cũng không có ông.
Nghị quyết Trung ương 6 năm 1979, cho dù đã kích thích sự “bung ra” ở nhiều nơi nhưng cũng chỉ là một “tháo gỡ” nửa vời thay vì thay đổi trên nền tảng tư duy, nên từ sau Đại hội V, khi tình hình tiếp tục khó khăn, xu hướng quay lại đã xuất hiện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, tháng 12-1983 và Hội nghị Trung ương 6, tháng 7-1984, vẫn còn đánh giá nguyên nhân của tình hình khó khăn là do “chậm cải tạo xã hội chủ nghĩa và cải tạo thị trường tự do”. Tháng 1-1983, Trường Chinh vẫn ký Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị chuyên đề về Hà Nội. Nghị quyết được nói là có thêm những “tình tiết tăng nặng” để “Chiến dịch Z-30” tiến hành “cải tạo lần hai”.
Tới năm 1986, Trường Chinh đã đi được một quãng đường khá dài, đã ra khỏi “tháp ngà”, đã đến tận cơ sở để lắng nghe thay vì tin vào các báo cáo mà ông nhận ra là dối trá. Từ năm 1982 cho đến năm 1986, trên diễn đàn các hội nghị trung ương, Trường Chinh thẳng thắn và đầy sức thuyết phục, đấu tranh không khoan nhượng, từng bước xác lập nền tảng lý luận để giải thích thực tế và bắt đầu đổi mới. Thủ tướng Phan Văn Khải, khóa V là ủy viên dự khuyết Trung ương, nhớ lại:“Khi đó, những bài phát biểu của Trường Chinh liên tục nhận được nhiều tràng pháo tay. Ý kiến của ông rất mới mẻ và thực sự làm thay đổi tư duy của Đảng”.
Sức khỏe của Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong những diễn biến chính trị trước Đại hội VI. Theo bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông Lê Duẩn: “Đầu năm 1986, những vết sẹo phổi có từ hồi nằm Côn Đảo bị đánh bầm dập nay phát sinh nước trong phổi. Anh đi Liên Xô điều trị… Khi từ Liên Xô trở về, anh nằm dưỡng bệnh ở Biệt thự số 7 Hồ Tây. Tôi ra thăm, anh bắt tay tôi, bàn tay nóng hôi hổi, môi anh đỏ mọng. Chú Hiền, bác sỹ riêng của anh nói, anh thường xuyên sốt 38˚, 39˚ nhưng vẫn dự họp Trung ương hoặc gặp đồng chí này, đồng chí kia để lo nội dung và nhân sự đại hội” (538).
Theo ông Việt Phương và bà Lê Thị Muội, con gái Lê Duẩn, những ngày bệnh Lê Duẩn nằm ở Biệt thự số 7 Hồ Tây, mỗi lần nghe có ông Trường Chinh sang là ông lại bắt dìu từ gác hai xuống phòng khách, cho dù ông Trường Chinh đề nghị ông sẽ ngồi bên giường bệnh để nói chuyện với ông Lê Duẩn. Trong khi đó, cứ thấy Lê Đức Thọ đến là Lê Duẩn lại “phẩy tay đuổi đi”.
Ông Hoàng Tùng nói: “Càng về sau, ông Lê Duẩn càng nhận ra sự thao túng của Lê Đức Thọ, đặc biệt là sự thao túng nhân sự trong Đại hội V năm 1982”. Trần Nhâm, thư ký riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp Bộ Chính trị, cụ Duẩn đã ốm lắm nhưng vẫn dự. Ông chỉ mặt Lê Đức Thọ: “Có phải có những trung ương ủy viên anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức Thọ tái mặt. Cụ Trường Chinh cầm tay áo cụ Duẩn kéo ông ngồi xuống: “Anh đừng làm anh em người ta sợ”. Trong một phiên họp Bộ Chính trị, ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Anh đừng họp Bộ Chính trị nữa”. Một thời gian sau, Lê Đức Thọ đi họp lại, Lê Duẩn lại nói: “Tôi đã bảo anh không họp nữa mà. Lê Đức Thọ phải ra về” (539).
Tại Hội nghị Tổ chức chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ VI, diễn ra vào tháng 4- 1986, ông Lê Đức Thọ gián tiếp chỉ trích Lê Duẩn: “Lâu nay nói đường lối đại thể đúng, cụ thể sai. Nói như vậy không đúng. Kế hoạch năm năm 1976-1980 là duy ý chí, phiêu lưu. Đáng lẽ làm hai, ba năm khôi phục rồi mới đi vào xây dựng kinh tế thì tốt hơn”. Về nhân sự, ông Lê Đức Thọ nói: “Lãnh đạo của ta già quá, từ năm 1980 tới nay không có phê bình và tự phê bình. Lúc Hồ Chủ tịch già không làm việc thường xuyên nhưng phải báo cáo công việc hàng ngày với Bác. Mấy năm nay, tổng bí thư không làm việc, anh Trường Chinh, tôi, không có phê bình. Năm năm Bộ Chính trị không có tự phê bình và phê bình. Ủy viên Bộ Chính trị của ta thấp nhất là sáu mươi lăm tuổi, cao nhất là tám mươi nên rất hẫng. Dư luận nhiều nhưng cho đến nay chưa thống nhất về nhân sự. Tình hình kinh tế phức tạp. Đồn đại anh Ba chết, tiền, giá, kẻ địch lợi dụng nhiều”. Rồi ông Lê Đức Thọ chỉ đích danh: “Anh Trường Chinh làm tổng bí thư mười tám năm; anh Ba làm tổng bí thư hai mươi lăm năm. Cả hai đều già trên tám mươi tuổi. Theo tôi, điều lệ nên ghi, một người không giữ chức tổng bí thư quá hai nhiệm kỳ” (540). Ông Lê Đức Thọ được nói còn có một nỗ lực tái lập chức chủ tịch đảng để tăng thêm cơ hội (541).
Năm 1985, ông Trường Chinh giới thiệu Nguyễn Văn Linh vào Bộ Chính trị lần hai. Tháng 6-1986, ông Linh được đưa ra Hà Nội giữ chỗ thường trực Ban Bí thư, một vị trí mà khi đó ông Tố Hữu đang chờ đợi. Tại Hội nghị Trung ương 10, chính ông Trường Chinh đã điều khiển phiên họp theo hướng để Nguyễn Văn Linh nắm giữ cương vị này. Ông Linh bàn giao ở Thành phố Hồ Chí Minh xong, ra tới Hà Nội ngày 1-7-1986. Ngày 10-7-1986, ông Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phiên bất thường, chính thức bầu Trường Chinh giữ chức tổng bí thư, sau đúng ba mươi năm gián đoạn.

Vai trò của Mikhail Gorbachev
Từ tháng 6-1986, Trường Chinh đã được giao làm trưởng Tiểu Ban Chuẩn bị Văn kiện, nhưng công việc soạn thảo cho đến khi ấy vẫn do Tố Hữu phụ trách (542). Khi ông Lê Duẩn mất, điều ông Trường Chinh lo lắng nhất là “cương lĩnh”. Theo ông Đặng Xuân Kỳ: “Tôi kiến nghị, có hai việc phải chấn chỉnh ngay: một là báo cáo chính trị, hai là vấn đề nhân sự”. Ông Trường Chinh băn khoăn: “Thời gian còn ngắn quá”. Ông Kỳ bảo: “Nếu biết cách tổ chức, ba tháng xong, nhưng cái khó là nhân sự”.
Ngày 13 và 14-5-1986, phát biểu tại hội nghị Bộ Chính trị, Trường Chinh nói: “Cách nghĩ cách làm cũ đã cản trở chúng ta phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, làm cho nhân tài bị mai một”. Nguyên nhân của tình hình đó được ông phân tích do quan niệm phong kiến, hẹp hòi theo kiểu gia trưởng “sống lâu lên lão làng” đã “ràng buộc, hạn chế tầm nhìn của chúng ta, khiến ta không thấy đầy đủ vốn quýbáu đó”.
Trong bài phát biểu này, Trường Chinh cảnh báo tình trạng “chọn người rồi mới tìm việc để ấn vào” thay vì từ nhu cầu của công việc mà chọn người thực hiện. Lê Đức Thọ không những không đồng ý với bài phát biểu mà còn truy hỏi gay gắt: “Ai viết cho Trường Chinh?”. Chỉ khi vấn đề được phát biểu trước Hội nghị Trung ương 11 và được Ban Chấp hành Trung ương bày tỏ sự đồng tình, Lê Đức Thọ mới thôi phản ứng. Theo ông Hà Nghiệp: “Đại hội VI tuy thành công về mặt đường lối, đãthất bại về nhân sự”.
Trước khi ông Lê Duẩn mất không lâu, ngày 2-6-1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh ký quyết định miễn nhiệm những cán bộ liên đới trách nhiệm trong vụ Giá-Lương-Tiền. Hai trong số đó là các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh và Trần Phương (543). Hạ tuần tháng 7-1986, Trường Chinh quyết định thay thế nhóm biên soạn báo cáo chính trị làm việc dưới thời Lê Duẩn, đứng đầu là Tố Hữu, Trần Quỳnh. Theo ông Việt Phương, một thành viên trong nhóm soạn thảo văn kiện thời kỳ Tố Hữu, thì cho tới lúc ấy, nhóm chỉ mới soạn thảo đề cương và đề cương này chưa bao giờ được trình lên tổng bí thư vì lúc ấy tình hình sức khỏe của Lê Duẩn đã rất xấu.
Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI được thành lập mới, gồm mười người, tổ trưởng là Hoàng Tùng, tổ phó là Đào Duy Tùng; nhóm chuyên gia tư vấn của ông Trường Chinh có ba người tham gia, Hà Nghiệp, Lê Văn Viện và Trần Đức Nguyên. Lê Văn Viện khi ấy đang ở Lào, làm chuyên gia tư vấn giúp Kay-Sỏn Phôm-Vi-Hẳn, tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người cuối cùng được đưa vào nhóm này là Lê Xuân Tùng. Theo Việt Phương: “Trong nhóm dự thảo Văn kiện Đại hội VI, Lê Xuân Tùng là người đóng góp ít nhất vào việc viết ra đường lối đổi mới, nhưng về sau là người đạt được cương vị cao nhất trong thời kỳ đổi mới: ủy viên Bộ Chínhtrị”.
Chấn chỉnh việc chuẩn bị văn kiện đại hội xong, đầu tháng 8-1986, Trường Chinh đi Liên Xô. Đây là một chuyến đi bất thường, nhưng là lệ thường. Các nước “xã hội chủ nghĩa anh em” mỗi khi thay đổi đường lối hay người lãnh đạo đều phải đến “ông anh cả” Moscow trình diện. Ông Trường Chinh ở lại Moscow một tuần, và ngày 12-8-1986, ông gặp Tổng Bí thư Gorbachev lần đầu tiên.
Chuyến đi thứ hai của ông Trường Chinh diễn ra vào tháng 11-1986, khi công việc chuẩn bị đại hội đã tới giai đoạn hoàn tất. Trường Chinh tới Moscow lần này là để dự cuộc gặp các Tổng bí thư, các Bí thư Thứ nhất các Đảng Cộng sản và các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Thực tế là ông đi với một sứ mệnh quan trọng là tìm kiếm sự ủng hộ của Liên Xô cho công cuộc cải cách của mình. Theo Chánh Văn phòng Trung ương Đảng khóa V Nguyễn Khánh: “Theo lệ xưa nay, mỗi khi Đảng Cộng sản Việt Nam đại hội thì đường lối phải được Đảng Cộng sản Liên Xôvà Trung Quốc đồng tình. Nếu họ không đồng tình thì đường lối sẽ không thực hiện được. Lúc bấy giờ, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc còn gay gắt nên chỉ phải đi Liên Xô”.
Trường Chinh đến Moscow ngày 9-11-1986, cuộc gặp Gorbachev được sắp xếp vào ngày 12-11-1986. Theo ông Hà Nghiệp: “Chúng tôi đã rất lo lắng”. Trước ngày lên đường đi Moscow không lâu, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, ngày 19-10- 1986, Trường Chinh tuyên bố: “Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ, có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng dứt khoát không thể bỏ qua sản xuất hàng hóa”. Ở thời điểm ấy, nếu Gorbachev “bác” đường lối đổi mới của Việt Nam thì ở trong nước, Trường Chinh chắc chắn sẽ gặp khó khăn với những người bảo thủ.
Sau khi Trường Chinh nhấn mạnh vai trò của kinh tế thị trường tại phiên họp ngày 18-5-1986 của Bộ chính trị, ông Phạm Văn Đồng nói: “Anh thì khi nào cũng hàng hóa”. Trường Chinh nhẹ nhàng nhấc chén trà trước mặt: “Tôi hỏi anh, cái chén này bán ở ngoài cửa hàng không phải hàng hóa thì là cái gì?”. Phạm Văn Đồng: “Đất nước đang nước sôi lửa bỏng mà anh lúc nào cũng lý luận”. Trường Chinh: “Đúng là tôi đang tư duy lý luận. Nhưng, khi nhà cháy mà chúng ta không trước hết nghĩ cách, cứ lao hết vào lửa thì cháy hết cả nhà lẫn người” (544). Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thì không ít lần công khai dẫn lời Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô Baibakov: “Chủ nghĩa xã hội là Sông Đà chứ không phải là chợ Đồng Xuân”.
Tháp tùng chính thức Trường Chinh tới Moscow có Hà Nghiệp, Trần Nhâm và Chánh Văn phòng Nguyễn Khánh. Giáo sư Dương Phú Hiệp cũng có mặt. ÔngDương Phú Hiệp kể: Theo lịch, cuộc gặp Gorbatchev sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều. Một giờ, ông Trường Chinh cho gọi chúng tôi sang trao đổi. Trường Chinh tỏ ra lo lắng.
Mọi lo lắng hóa ra lại không cần thiết. Theo Hà Nghiệp thì cuộc gặp Gorbachev diễn ra suôn sẻ. Gorbachev đánh giá những dự định cải cách của Việt Nam là sáng tạo, ông đồng ý với những đề nghị của Trường Chinh và nhận xét: “Có những điều các đồng chí còn đi xa hơn cả chúng tôi”. Gorbachev nói điều đó không chỉ để làm vui lòng Trường Chinh. Trong khi Việt Nam bắt đầu công nhận “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”, thì một tuần sau, vào ngày 21-11-1986, Xô Viết Tối Cao Liên Xô, trong một nỗ lực cải cách, chỉ đưa ra được luật cho phép lập các “xưởng cá nhân và gia đình”, theo đó người dân chỉ được sản xuất “dựa vào chính sức mình và của những người trong gia đình”.
Ngày 28-7-1986, khi tới thăm vùng Viễn Đông Liên Xô, Gorbachev tỏ ra quan tâm tới Việt Nam khi tuyên bố: “Mong muốn biên giới Việt – Trung trở thành một biên giới hòa bình, láng giềng và thân thiện”. Cũng trong chuyến đi đó, Gorbachev bắt đầu đề cập tới cải tổ. Ngày 31-7-1986, ông tuyên bố ở Vladivostock: “ĐảngCộng sản Liên Xô và toàn thể đất nước Xô Viết hoàn toàn hiểu rằng cần phải tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề mà cuộc sống đặt ra ngay trong khuôn khổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa”. Ông nhấn mạnh: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không được sống theo lối cũ”. Báo chí Việt Nam thời gian đó bắt đầu dành nhiều tin bài để nói về Liên Xô. Từng bước đi của Gorbachev đều được báo chí Việt Nam, đặc biệt là tờ Tuổi Trẻ, tường thuật (545).
Cho dù đổi mới ở Việt Nam là một tiến trình diễn ra với sự hối thúc từ bên trong, nhưng sự thay đổi của Liên Xô đã đóng một vai trò quan trọng. Cái chết của Brezhnev vào ngày 10-11-1982 đã chấm dứt kỷ nguyên trì trệ kéo dài suốt mười tám năm kể từ khi Brezhnev ngồi lên ghế tổng bí thư Liên Xô. Người kế vị ông, Andropov, thì nằm trên giường bệnh nhiều tháng trước khi qua đời trong thời gian ở ngôi tổng bí thư mười lăm tháng. Người kế nhiệm Andropov chưa phải là Mikhail Gorbachev như ông ta muốn mà là một ủy viên Bộ Chính trị ốm yếu khác:Chernenko. Cái chết của Chernenko sau đó mười ba tháng đã đưa Gorbachev lên vị trí tổng bí thư. Ngày 11-3-1985, ngày Gorbachev nhậm chức, đã đánh dấu một kỷ nguyên mới của lịch sử thế giới (546).
Trường Chinh từ Moscow trở về, tưởng mọi chuyện đều trôi chảy. Nhưng khi bắt đầu đại hội, các đại biểu đã rất hoang mang. Trần Quỳnh, sau khi cùng Võ Chí Công đến Hungary dự cuộc họp của Hội đồng Tương trợ Kinh tế về, nói rằng: “Thủ tướng Liên Xô nói Liên Xô không tán thành Việt Nam đi theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội thị trường”. Nhiều người nghe Trần Quỳnh tỏ ra rất sợ; hầu hết đại biểu đều đã học qua Nguyễn Ái Quốc, đều biết số phận của Tiệp Khắc khi dám qua mặt Liên Xô làm “chủ nghĩa xã hội thị trường”.
Nhưng, theo Giáo sư Dương Phú Hiệp, Trường Chinh là một người làm việc hết sức chặt chẽ. Ông hỏi văn phòng: “Anh Trần Quỳnh nói có kèm theo văn bản không?”. Văn phòng trả lời “không”. Ông nói: “Thế thì không được. Tôi có văn bản. Tôi và Gorbachev có ký chung một văn bản nhất trí với nhau đây”. Biên bản được phát ra, những người ủng hộ Trường Chinh mới thở phào nhẹ nhõm khi thấy “Liên Xô không ngăn cản ta đổi mới”. Khi ấy, Trường Chinh mới nhắc lại bài viết của viện trưởng Viện Chính trị Kinh tế Thế giới mà Gorbachev đã rất thích: “Ở Liên Xô cũng có những kẻ hay dọa thế” (547).

Tuyên ngôn đổi mới
Đó là những ngày sôi động. Sau khi Trường Chinh nhận chức tổng bí thư, ông cùng Hoàng Tùng, tổ trưởng Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI, và các thành viên của Tổ Biên tập, xuống nhà nghỉ Vạn Hoa, tòa lâu đài ở Đồ Sơn, nơi mà Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng thai nghén Nghị quyết Đại hội IV. Tại đây, theo ông Hoàng Tùng: “Chúng tôi lần lượt trả lời hai mươi câu hỏi mà tình hình đặt ra và quán triệt tinh thần của báo cáo chính trị chỉ trong hai chữ: đổi mới”.
Tổ Biên tập sau đó làm việc chính ở Hồ Tây. Mỗi phần của báo cáo được phân cho một nhóm biên soạn, Trường Chinh trực tiếp đọc và sửa. Khi đánh giá những sai lầm sau 1975, theo ông Đặng Xuân Kỳ: tôi đề nghị ghi rõ sai lầm của ta là sai lầm về đường lối chứ không chỉ chủ trương chính sách lớn. Ông Lê Phước Thọ cũng đề nghị: “Đảng ta trước sau phải thừa nhận thời kỳ đó là sai lầm về đường lối”. Nhưng cha tôi nói: “Anh Ba vừa mới mất, nói sai lầm đường lối là đánh giá tổng bí thư. Cũng phải coi hoàn cảnh lịch sử lúc đó để đánh giá như thế nào là vừa mức”. Tuy nhiên, trước áp lực “nhìn thẳng vào sự thật”, Trường Chinh cũng đã phải tự tay ghi vào văn kiện: “Trong nhiều năm qua, Đảng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn”. Ngày 19-10-1986, phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, Trường Chinh phân tích thêm: “Đó là sai lầm tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan… khi đã mắc sai lầm lại bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa chữa”.
Tổ biên tập phân công Phan Diễn viết “Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh tế”, Hà Đăng viết phần “Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần”, Trần Đức Nguyên viết “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”. Với sự thận trọng truyền thống, từng vấn đề một,Trường Chinh đều cho chuẩn bị kỹ, đưa ra Bộ Chính trị thảo luận rồi thông qua từng phần trước khi đưa vào “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội” (548).
Thế nhưng, theo ông Trần Đức Nguyên: “Một buổi sáng sát ngày đại hội, tôi vừa tới nơi làm việc của Tổ biên tập ở Hồ Tây thì được anh Đào Duy Tùng chuyển cho hơn mười điểm mà các anh ủy viên Bộ Chính trị trong Chính phủ (gồm Phạm VănĐồng, Đỗ Mười, Võ Chí Công) thấy cần sửa. Tôi xem ngay và sau đó gọi điện thoại cho anh Năng, thư ký của anh Tô (Phạm Văn Đồng), nhờ báo cáo với anh Tô cho tôi được trình bày lại, vì nếu sửa văn kiện theo ý bên chính phủ thì khác với kết luậncủa Bộ Chính trị về ba quan điểm đã bàn. Chỉ ít phút sau, tôi được anh Năng gọi điện lại truyền đạt ý kiến anh Tô là viết như kết luận của Bộ Chính trị”.
Sau khi tạo được sự thống nhất trong nội bộ, Tổng Bí thư Trường Chinh đã chọn Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội để công bố với nhân dân. Ngày 19-10-1986, tại Hà Nội, ông phát biểu: “Đối với cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đáp ứng những nhu cầu chính đáng và ngày càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Yêu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nước ta, vừa phù hợp với xu thế đổi mới của thời đại”. Bài phát biểu được các phương tiện truyền thông chính thức trích dẫn ngay trong ngày, ngay sau đó nó được đón nhận như một Tuyên Ngôn Đổi Mới.

Bàn tay Lê Đức Thọ
Trước Đại hội VI, theo ông Hoàng Tùng: “Lê Đức Thọ không thèm quan tâm đến báo cáo chính trị mà tập trung những nỗ lực cuối cùng để cấy nhân sự vào nhiệm kỳ kế tiếp”. Có thể nói, chưa bao giờ bản lĩnh Lê Đức Thọ thể hiện kiên nhẫn và sắt đá như giai đoạn này – giai đoạn mà uy tín của ông xuống đến mức những người thân tín nhất của ông lần lượt bị “phế truất” thông qua lá phiếu bầu từ các đại hội địa phương và ngành, đặc biệt là từ quân đội.
Đúng như Lê Đức Thọ nhận xét trong Hội nghị Công tác Tổ chức, tháng 4-1986: “Đời sống khó khăn gây nhiều chuyện tiêu cực, kể cả quân đội cũng tiêu cực ghê gớm”. Ông Thọ thừa nhận: “Năm mươi sáu năm nay lúc này phẩm chất trong Đảng ta là sa sút nhất. Trong Đảng hình thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, nên không muốn rời chỗ đứng của mình vì nếu rời đi thì mất nhiều quyền lợi. Có người thắc mắc, nghỉ hưu chết có được quốc tang không? Được mấy vòng hoa khi chết, đem nhiều vòng hoa để biết người chết cách mạng to hay nhỏ, rồi chôn ở nghĩatrang nào?”. Lê Đức Thọ đã nói đến những tiêu cực này như một người ngoài cuộc. Thế nhưng, từng vị chỉ huy quân đội biết rõ nguyên nhân đến từ đâu.
Sự kiện Võ Nguyên Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ theo thứ bậc trong Bộ Chính trị sau Đại hội IV đã khiến các tướng lĩnh cảm thấy bị xúc phạm. Liền sau đó là sự ra đi của Tướng Trần Văn Trà. Người thay thế Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Văn Tiến Dũng, một vị tướng có nhiều đóng góp. Tuy nhiên, Tướng Dũng đã đánh mất khá nhiều uy tín của mình khi cho xuất bản cuốn hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân, gần như bỏ qua vai trò của Tướng Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 13-10-1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Toàn Quân IV, diễn ra tại Hà Nội. Ngay trong lễ khai mạc, các đại biểu đã bày tỏ thái độ. Đại hội, trong khi chỉ dành vài tràng vỗ tay lẹt đẹt cho Đại tướng Văn Tiến Dũng, đã nhất loạt đứng lên vỗ tay như sấm khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước vào hội trường. Tướng Giáp chỉ là một đại biểu được mời dự, nhưng đã được quân đội đón chào bằng cả những tiếng hoan hô và nước mắt. Những tiêu cực trong quân đội, tình trạng thiếu thốn, khổ sở của người lính trên các chiến trường được các tướng lĩnh phê phán gay gắt. Tham luận của Thiếu tướng Lê Phi Long, người vừa trực tiếp đốc chiến trên chiến trường Vị Xuyên trở về, mô tả đời sống khó khăn, chết chóc hàng ngày của người lính trên
biên giới Việt-Trung; đối lập với tình trạng lợi dụng phương tiện quân sự buôn lậu, thu vén cá nhân của gia đình một vài tướng lĩnh.
Ngày 18-10-1986, đại hội đã “cách chức” hai đại tướng Chu Huy Mân và Văn Tiến Dũng bằng cách gạch tên hai nhân vật cao nhất của quân đội ra khỏi danh sách bảy mươi mốt đại biểu toàn quân đi dự Đại hội Đảng Toàn Quốc. Duy nhất chỉ có hai ý kiến bảo vệ Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân. Một trong hai người đó là Tướng Lê Ngọc Hiền, phó tổng tham mưu trưởng. Tướng Hiền đã bị phản đối quyết liệt khi đề nghị đại hội bầu cử lại.
Do Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân đang là ủy viên Bộ Chính trị khóa V nên theo Điều lệ Đảng, đương nhiên có mặt tại Đại hội VI. Tuy nhiên, cả hai vị đã không còn uy tín và không đủ điều kiện để được giới thiệu tiếp vào Ban Chấp hành Trung ương. Đại tướng Hoàng Văn Thái thì cũng vừa chết khá đột ngột ngày 2-7-1986.
Trong quân đội, người được coi sẽ ở vào vị trị kế tiếp là Đại tướng Lê Trọng Tấn (549).Tuy nhiên, một tháng là thời gian đủ dài để Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ chuẩn bị. Ngày 5-12-1986, khi Đại tướng Lê Đức Anh từ Campuchia về Nhà khách T66 của Bộ quốc phòng, khi đại biểu từ khắp các tỉnh thành trong cả nước đã tập trung về Hà Nội để dự đại hội, Tướng Lê Trọng Tấn từ một cuộc họp ở Trung ương đi thẳng đến số 6 Nguyễn Cảnh Chân gặp Lê Đức Thọ. Không ai biết rõ những gì đã xảy ra trong cuộc gặp chóng vánh này. Từ Nguyễn Cảnh Chân, Tướng Tấn lên xe về nhà riêng, 36C Lý Nam Đế. Ở nhà, Tướng Lê Ngọc Hiền đang chờ ông về cùng ăn cơm.
Tướng Lê Ngọc Hiền là em vợ của Tướng Tấn, nhưng anh em có những bất đồng vì ông Hiền, trước đó, “phù thịnh”, đứng hẳn về phía Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân. Giữa Lê Trọng Tấn và Lê Ngọc Hiền có nói với nhau vài câu ngắn. Bỗng nhiên,Tướng Tấn gục xuống bàn. Bà Lê Thị Minh Sơn, phu nhân Đại tướng Lê Trọng Tấn từ nhà dưới chạy lên. Tướng Giáp từ 30 Hoàng Diệu, chạy đến đầu tiên. Người thứ hai là Tướng Đinh Đức Thiện. Trong khi Tướng Giáp cắn chặt răng, đau đớn, Tướng Đinh Đức Thiện, em ruột Lê Đức Thọ kêu lên: “Tấn ơi, đứa nào hại mày?”. Khi được dìu lên giường, Tướng Tấn chỉ kịp tháo chiếc đồng hồ Titoni mà ông đã đeo cả đời, đưa cho cháu nội trai là Lê Đông Giang, dặn: “Con cố trưởng thành”.
Ngay lập tức, ông được đưa ra khỏi nhà. Đến đêm, gia đình được thông báo là ông đã mất. Mãi tới sau ngày 7-12-1986, ngày tang lễ của ông, các báo mới đăng thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương: “Đại tướng Lê Trọng Tấn từ trần hồi 18 giờ 50 phút ngày 5-12-1986, thọ bảy mươi hai tuổi, sau một cơn đau cấp tính vì đồng chí đã mắc bệnh tim mạch nặng từ lâu”. Hiếm có một cáo phó nào lại phải “vòng vo” như vậy về nguyên nhân của một cái chết và điều này càng làm tăngthêm hoài nghi.
Khi Tướng Lê Trọng Tấn mất, Lê Đức Thọ vừa là người phụ trách công tác tổ chức, vừa phụ trách Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương, cơ quan quyết định tới từng viên thuốc của các nhà lãnh đạo. Cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn ngay bên thềm Đại hội Đảng, cũng như cái chết trước đó của Đại tướng Hoàng Văn Thái, rất có thể chỉ là do tuổi tác và bệnh tật như “thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương”, nhưng lịch sử phi chính thống đã xếp những cái chết này vào hàng “nghi án”.
Hơn một tháng sau cái chết của Tướng Lê Trọng Tấn, ngày 20-1-1987, trong một chuyến đi săn, khi ông Đinh Đức Thiện lấy khẩu súng từ trong xe ra thì đạn nổ, viên đạn xuyên từ cằm lên đỉnh đầu, đục thủng trần xe. Vị tướng đã xông pha biết bao chiến trường ấy cuối cùng đã chết vì “súng bị cướp cò”.
Ở hành lang Đại hội Đảng, các đại biểu xì xầm, nhưng cái chết đột ngột của Tướng Lê Trọng Tấn, người lẽ ra sẽ giữ chức bộ trưởng quốc phòng sau đại hội này, đã không được công khai nói đến. Cho đến lúc đó, công tác nhân sự vẫn được ông Lê Đức Thọ kiểm soát gần như tuyệt đối. Quy trình công tác cán bộ của Quốc tế III vốn đã có vấn đề lại càng trở nên “quái gở”, như nhận xét của ông Việt Phương, sau khi mang thêm dấu ấn cá nhân của những con người như Stalin, Mao Trạch Đông, Beria, Khang Sinh, và được Lê Đức Thọ mang về Việt Nam, và theo Việt Phương, trở thành “một cách làm sai hỏng đã được quy tắc hóa”.
Theo quy trình này, nhân sự của nhiệm kỳ mới, về lý là do đại hội bầu, nhưng danh sách đưa ra để đại hội bầu với một số lượng sít sao lại do Ban Chấp hành Trung ương khóa cũ, tức là những người sắp rời nhiệm sở, đề nghị. Nếu có ai đó được đại hội đề nghị mà Ban Chấp hành Trung ương không tán thành thì chính họ sẽ được Tiểu Ban Nhân sự yêu cầu “tự nguyện rút”. Cũng có nhiều trường hợp, người được đề cử không rút, và mỗi đại hội, Tiểu Ban Nhân sự đều nhân nhượng đưa vào danh sách bầu cử một số ứng cử viên. Nhưng lịch sử các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi cầm quyền, hầu như không có ứng cử viên nào đắc cử trung ương nếu như không nằm trong danh sách chính thức được đề cử bởi Ban Chấp hành cũ. Nói là Ban Chấp hành nhưng, người đóng vai trò quyết định vẫn là Lê Đức Thọ.
Ông Việt Phương cho rằng cả Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đều phó thác toàn bộ công tác nhân sự cho Lê Đức Thọ. Trường Chinh tuy có quan tâm nhưng ông lại chỉ thường chú trọng các vấn đề nguyên tắc. Ông Việt Phương xác nhận: “Những năm cuối đời, anh Lê Duẩn ác cảm ra mặt bởi sự lộng quyền của Lê Đức Thọ trong công tác cán bộ. Ông nhiều lần nói với nhóm giúp việc chúng tôi: Ban Chấp hành Trung ương có 150 người, may ra tôi chỉ biết hai mươi người, còn lại do anh Thọ sắp xếp. Tuy rằng anh ấy có báo cáo, nhưng rồi Bộ Chính trị, Trung ương cũng chủ yếu quyết định theo trình bày của anh ấy”. Cũng theo Việt Phương, chính Hồ Chí Minh cũng từng phải than rằng: “Công tác cán bộ của ta đều do chú Thọ cả. Chú thích ai thì chú báo cáo tốt, ghét ai báo cáo xấu, chứ Bộ Chính trị có biết hết đâu”.
Trong suốt ba mươi hai năm làm thủ tướng, cứ mỗi nhiệm kỳ, ông Phạm Văn Đồng lại “trình quốc hội” một danh sách chính phủ mới. Bản danh sách ấy khôngphải của ông Phạm Văn Đồng mà là của ông Lê Đức Thọ, cả về thành phần lẫn văn vẻ. Theo ông Việt Phương: “Trước mỗi lần đọc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại rị mọ ngồi sửa lại chữ nghĩa trong bản danh sách nội các trình Quốc hội phê chuẩn. Ông Phạm Văn Đồng sửa vì ông là một người trí thức thận trọng chữ nghĩa, ông không thể đọc trước Quốc hội một văn bản mà ông than: họ viết câu bất thành cú. Tuy nhiên, ông chỉ có thể chữa lại ngữ pháp, chính tả, chứ nội dung của nó thì thủ tướng cũng không có quyền thay đổi”. Nhiều nhân vật, cho đến khi được ông Lê Đức Thọ đưa lên làm “thành viên chính phủ”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chưa hề gặp mặt lần nào (550).
Nhân sự cho Đại hội VI vẫn do Lê Đức Thọ điều khiển cả về quy trình và con người cụ thể. Theo người kế nhiệm của ông Thọ, ông Nguyễn Đức Tâm: “Trong quá trình chuẩn bị, anh Thọ luôn nhắc nhở chúng tôi phải chú ý phương châm: thận trọng, dân chủ. Trong từng trường hợp một, với cương vị là trưởng Ban Nhân sự Đại hội, anh Thọ đều bố trí thời gian nghe một cách chăm chú và hỏi lại cặn kẽ những chi tiết còn chưa thật rõ” (551). Tuy nhiên, giữa những lời dặn dò và cách mà ông Lê Đức Thọ làm nhân sự, theo trải nghiệm của nhiều ủy viên trung ương là rất khác nhau và có khi vô cùng “hình sự” (552).
Đối với các trường hợp được giới thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông Nguyễn Đức Tâm: “Anh Thọ càng thận trọng xét đi xét lại kỹ lưỡng, báo cáo Bộ Chính trị rồi trao đổi lại với từng người một, cứ như vậy cho đến khi có sự nhất trí trong Bộ Chính trị rồi mới giới thiệu ra trung ương. Đến Đại hội VI về cơ bản cũng làm theo phương pháp trên, nhưng đặc biệt ở đại hội này, việc lựa chọn tổng bí thư gặp khó khăn nhất. Qua nhiều lần trao đổi riêng với từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư vẫn chưa nhất trí” (553).

Phút 89
Chính vì nhân sự chủ chốt chưa nhất trí được trong Bộ Chính trị mà ở hai kỳ hội nghị trung ương – Hội nghị 11, họp từ 17-25 tháng 11-1986; Hội nghị 12, họp trước và trong khi bắt đầu “Đại hội Nội bộ”, từ 5-12-1986 – nói là để “bàn nhân sự”, nhưng theo ông Lê Văn Triết, khi ấy là ủy viên trung ương dự khuyết, các cuộc thảo luận ở trung ương chỉ bàn về nguyên tắc chứ không được bàn về nhân sự cụ thể.
Việc không để các ủy viên trung ương và các đại biểu thảo luận nhân sự cụ thể đã tạo ra một khoảng trống ở đại hội. Trước khi về Hà Nội, các đoàn đại biểu, đặc biệt là các đại biểu miền Nam, những người hiểu rõ Nguyễn Văn Linh và đang kỳ vọng to lớn vào Trường Chinh đã có một cuộc vận động để Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư khóa VI. Theo ông Trần Nhâm, thoạt đầu, ông Trường Chinh nói trong Bộ Chính trị: “Tuổi tôi lớn rồi. Tôi xin thôi”. Nhưng về sau, có lẽ ý thức trước sứ mệnh mà các đảng viên muốn giao phó cho ông và khó chịu trước cách làm của Lê Đức Thọ, ông Trường Chinh giữ im lặng.
Lê Đức Thọ đủ kinh nghiệm để thấy vào thời điểm ấy, ông không còn uy tín để tìm kiếm cơ hội cuối cùng cho mình (554), nhưng vẫn rất “thao lược’ để cài cắm trong bộ máy mới nhân sự của mình. Ông Trần Nhâm cho rằng việc không đưa nhân sự cụ thể ra thảo luận công khai là “động cơ cá nhân” của ông Lê Đức Thọ. Trong Đại hội Nội bộ, có hơn 900 đại biểu trong số 1.129 đại biểu về dự Đại hội VI ghi vào phiếu thăm dò đề nghị ông Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư. Các đoàn đại biểu, đặc biệt là các đoàn từ miền Nam ra liên tục xin gặp Trường Chinh để thuyết phục.
Theo lịch Đại hội Nội bộ, sáng ngày 13-12-1986, các đại biểu tập trung ở Hội trường Ba Đình. Nhưng, chờ mãi tới chín giờ, Ban Tổ chức mới thông báo: “Mời đại biểu về nghỉ. Chiều nay ba giờ lên hội trường để thống nhất nhân sự kết thúc đạihội trù bị”. Vài giờ trước đó, theo ông Trần Nhâm: Tôi đến số 3 Nguyễn Cảnh Chân, nhà riêng Tổng Bí thư Trường Chinh, lúc sáu giờ. Sáu giờ ba mươi, Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Khánh tới hỏi: “Cụ dậy chưa?”. Tôi bảo: “Đêm qua họp Bộ Chính trị khuya, giờ cụ chưa dậy”. Nguyễn Khánh về, tới 7 giờ 30 thì “một lô một lốc kéo tới”, gồm Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đức Tâm, Võ Chí Công. Lê Đức Thọ ép ông ký vào lá đơn “xin không ứng cử”. Khi ông Trường Chinh chưa kịp trả lời, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Nội vụ Phạm Hùng nói: “Anh không rút thì rất căng” (555). Ông Trường Chinh đã phải gật đầu, nhưng ông đã không ký vào lá đơn “xin rút” do Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Khánh chuẩn bị.
Ba giờ chiều ngày 13-12-1986, các đại biểu lại lục tục lên hội trường, Phạm Hùng, người có thâm niên trong Bộ Chính trị chỉ sau ba vị trưởng lão sắp rời chính trường, thông báo với đại hội các vị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đã ‘xin rút tên” rồi Phạm Hùng đọc bản “tuyên dương công trạng to lớn” của “ba cụ” (556). Xếp theo thứ bậc trong Đảng thì Phạm Hùng sẽ là nhân vật số một còn tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị năm 1956, khi ông Nguyễn Văn Linh chưa là trung ương ủy viên. Từ năm 1967-1975, ông là bí thư Trung ương Cục miền Nam trong khi ông Linh là phó. Nhưng lúc ấy, những nhân vật mạnh nhất trong Đảng đều vận động cho Nguyễn Văn Linh. Ông Nguyễn Đức Tâm kể: “Anh Thọ vẫn kiên trì giữ ý kiến để anh Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư” (557). Ông Hoàng Tùng nhận xét: “Phạm Hùng là người nghiên cứu kinh tế không sâu nên ít đưa ra sáng kiến. Trong thời gian làm ‘phó’, Phạm Hùng cũng không phải là một người mềm mỏng với cả ông Phạm Văn Đồng”.
Ông Đồng vốn có cảm tình hơn với Nguyễn Văn Linh vì trong thập niên 1930 khi cùng ở tù Côn Đảo với nhau, Nguyễn Văn Linh – khi ấy mới chỉ là một cậu thiếu niên mười sáu tuổi – say mê đọc những tài liệu về chủ nghĩa Marx-Lenin do Phạm Văn Đồng dạy và dịch từ tiếng Pháp. Ngày 13-11-1986 khi ở Viên Chăn dự Đại hội Đại biểu Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, trước các nhà lãnh đạo các “đảng anh em”,Phạm Văn Đồng đã cố gắng giới thiệu Nguyễn Văn Linh như một thế hệ lãnh đạo kế tục ông thay vì chỉ tháp tùng trong chuyến đi đó.
Vào giờ chót, như một lá phiếu bỏ trước cho Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đã chuyển bài phát biểu khai mạc Đại hội VI mà Hội nghị Trung ương 11 đã giao cho ông và đã được người giúp việc của ông là Việt Phương viết cho Nguyễn Văn Linh. Theo ông Việt Phương, Nguyễn Văn Linh đã chỉ sửa một vài từ có tính “nhân xưng” rồi đọc trong phiên khai mạc Đại hội Nội bộ ngày 5-12. Ông Linh còn diễn đọc lại bài này trong phiên khai mạc Đại hội Công khai vào ngày 15-12-1986. Bài phát biểu về sau đã góp phần giúp báo chí gọi Nguyễn Văn Linh là tổng bí thư đổi mới.

***
Chú thích chương 10

(510) Đặng Phong, 2009, trang 66.
(511) Nhân hai sự kiện: Tháng 7-1980, phi công Phạm Tuân được Liên Xô đưa vào vũ trụ trong một chuyến bay cùng với đại tá người Nga Gorbatko theo chương trình intercosmos; tháng 10-1980, nghệ sỹ Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất cuộc thi Piano Quốc tế Frédéric Chopin. Với Phạm Tuân thì dân chúng dễ dàng nhận thức ra vấn đề, nếu như truyền thông suốt ngày nói về “niềm tự hào dân tộc” thì người dân lại coi đó là một trường hợp “quá giang”. Sự hờ hững này được lột tả trong hai câu ca dao hiện đại: “Bo bo còn phải độn mì/ Mi lên vũ trụ làm gì hở Tuân”. Trường hợp của nghệ sỹ Đặng Thái Sơn thì khác.
Khi ấy, Sơn đang học tại nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô. Thành tích của anh thật đáng để ngợi ca (Báo chí Việt Nam lúc đó hoàn toàn không biết sự kiện hai vị giám khảo Martha Argerich và Nikita Magaloff đã bỏ Hội đồng Giám khảo cuộc thi vì thí sinh mà theo họ là tài năng nhất, Ivo Pogorelich, không lọt vào vòng chung kết do bị một giám khảo người Nga cho điểm 0). Nhưng sự kiện Sơn đoạt giải và được tung hô càng khiến cho tầng lớp trí thức nhớ lại và xót thương cho thân phận cha anh, ông Đặng Đình Hưng, một nhà thơ cách tân bị ghép vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Đặng Thái Sơn kể: “Nhờ có Concours Chopin 1980 mà bố tôi được sống thêm mười năm. Vì lúc ấy bố tôi bị ung thư phổi nặng, đang phải sống ở gầm cầu thang nhà một ông bạn, không nhà không cửa mà đưa vào viện thì cũng chỉ nằm chờ chết. Đúng hôm thi, bố tôi vào viện. Ở nhà điện sang nói tôi thi xong phải về ngay. Lúc đó tôi tính nếu ở trong nước mà không chạy chữa được cho bố thì tôi sẽ đưa ông ra nước ngoài. Cuối cùng, Giáo sư Tôn Thất Tùng và Giáo sư Hoàng Đình Cầu đã chữa chạy cho bố tôi, giúp ông sống thêm được mười năm nữa. Concours Chopin đã đem lại nhiều thay đổi không chỉ với cuộc đời tôi mà cả gia đình tôi”.
(512) "Chinh" là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
(513) Ông Trường Chinh sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, trong một gia đình được nói là hậu duệ của Đặng Tất, một danh tướng thời Hậu Trần (Ngày 28-12-1975, ông Trường Chinh, tên khai sinh là Đặng Xuân Khu đã về thắp hương cho tiên tổ Đặng Tất, Đặng Dung ở Hà Tĩnh, là sự kiện được coi như một động thái “nhận họ” của ông Trường Chinh). Khi còn học ở bậc Thành Chung, Trường Chinh đã tham gia đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu; ông cũng là một trong những người lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh và bị đuổi học. Năm 1927, khi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Thương mại, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi trở thành một trong những người đầu tiên vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc kỳ. Cuối năm 1930, Trường Chinh bị bắt cùng với Nguyễn Đức Cảnh, ông Cảnh sau đó bị kết án tử hình, còn Trường Chinh lãnh án tù mười hai năm. Trong tù, ông vẫn làm chủ bút một tờ báo để tranh luận với các “đối thủ Việt Nam Quốc dân Đảng”, năm 1936 ông được tha trước thời hạn. Sau khi ra tù, ông trở thành xứ ủy viên Bắc kỳ, làm chủ bút tờ báo Cờ giải phóng, cơ quan của xứ ủy; ngoài ra, ông còn phụ trách các tờ báo tiếng Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin tức. Ngày 26-9-1939, sau khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, Tổng thống Pháp Lebrun ban hành sắc lệnh "Giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp cũng như ở các thuộc địa của Pháp” trong đó có Đông Dương. Ngay trong tháng đầu tiên sau chiến tranh, người Pháp đã bắt khoảng 2000 đảng viên cộng sản ở Việt Nam, riêng Nam Kỳ, hơn 800 đảng viên bị bắt. Ngày 17-1-1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, rồi tiếp đó, các Ủy viên Trung ương Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần bị đưa vào ngục. Người tiền nhiệm của ông Cừ là Hà Huy Tập thì đã bị người Pháp bắt từ ngày 1-5-1938. Ở Xứ ủy Bắc kỳ, Trường Chinh, Hạ Bá Cang, Hoàng Văn Thụ, Lương Khánh Thiện chạy thoát trước khi các chiến dịch bắt bớ diễn ra. Trung ương Đảng, lúc ấy chỉ còn đúng một ủy viên là ông Phan Đăng Lưu, quyết định chuyển cơ quan trung ương từ Nam ra Bắc, đồng thời bàn việc phối hợp hành động với miền Bắc và miền Trung khi “Nam Kỳ khởi nghĩa”. Ở Hà Nội, Phan Đăng Lưu họp với Xứ ủy Bắc Kỳ, lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, bầu bổ sung Hoàng Văn Thụ, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt). Phan Đăng Lưu thay vì nhận chức tổng bí thư đã nhất trí cùng những người dự họp cử Trường Chinh làm quyền tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
(514) Ngày 15-1-1942, Trường Chinh viết trên báo Cứu Quốc: “Hỡi các giới sĩ, nông, công, thương, binh! Hỡi các đoàn thể cứu quốc! Hỡi toàn thể đồng bào mất nước Việt Nam. Đã 80 năm, Tổ quốc kính yêu mất quyền độc lập, sa vào vòng nô lệ của giặc Pháp tham tàn. Đã 80 năm, dân tộc Việt Nam phải mang trên trán vết quốc sỉ nhuốc nhơ mà máu đào của bao nghĩa sĩ anh hùng tới nay vẫn chưa rửa sạch. Giờ đây, quốc sỉ tăng thêm nhục nhã, quốc thù tăng thêm căm hờn; giờ đây, giang sơn tổ tiên lại thêm giặc Nhật chà đạp, tấm thân trâu ngựa lại bị thêm 1 lần áp bức đọa đầy. Nhật khai chiến với Anh, Mỹ, lôi cuốn xứ sở ta vào vòng khói lửa binh đao. Trước cảnh nước mất, nhà tan thê thảm, Cứu Quốc, Cơ quan cổ động của Việt Nam Độc lập Đồng minh ra đời, thống thiết kêu gọi toàn quốc đồng bào mau hợp sức cùng lòng đánh đuổi Pháp, Nhật, rửa nhục cho non sông, đưa Tổ quốc tới chốn vinh quang độc lập”. Ông long trọng kêu gọi: “Cứu Quốc sẽ giải bày nỗi lầm than thống khổ của muôn dân. Cứu Quốc sẽ nêu cao những ý muốn thiết tha của trăm họ. Cứu Quốc sẽ là người chỉ lối trung thành cùng đồng bào cùng tiến lên trên đường giải phóng dân tộc… Toàn thể đồng bào yêu nước hãy tận tâm ủng hộ Cứu Quốc về mọi phương diện, hãy cương quyết tiến lên dưới bóng cờ sắc đỏ sao vàng!”.
(515) Đêm 9-3-1945, khi vừa ra khỏi rừng từ chuyến “ngự săn” ở Quảng Trị, Hoàng đế Bảo Đại được người Nhật đưa “hồi cung” ngay. Một sỹ quan Nhật nói với quan Ngự tiền Văn phòng Tổng lý Phạm Khắc Hòe: “Quân đội Thiên Hoàng chỉ truất quyền của thực dân Pháp thôi, chớ không đụng chạm gì đến Nam Triều” (Phạm Khắc Hòe, Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2007). Hôm sau, Đại sứ Nhật ở Đông Dương Yokoyama vào “chầu và tâu lên nhã ý muốn công nhận nền độc lập” cho Việt Nam. Có mặt trong buổi “chầu” đó, Phạm Quỳnh nói với Đại sứ Nhật: “Chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều đó, uy tín của chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập”. Yokohama cho rằng, tuyên cáo độc lập để chứng tỏ chủ quyền là công việc nội bộ mà và Chính phủ Việt Nam có “tự do tuyệt đối” để hành động. Ngày 11-3-1945, sau khi họp Hội Đồng Cơ Mật, vua Bảo Đại ký ban dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884. Ngày 17-3-1945, Nhà Vua lại ra một Dụ khác tuyên bố sẽ tự tay mắm quyền trên cơ sở “dân vi quý”. Người Nhật cũng đã đưa nhà sử học Trần Trọng Kim ra Huế sau khi ông “nhận lời làm Thủ tướng”. Ngày 17-4-1945, nhà vua ban Đạo dụ thành lập Chính phủ. Khi ấy, nạn đói bắt đầu lan ra phía Bắc, trong khi đường sá thường xuyên bị máy bay và pháo hạm của Đồng Minh oanh tạc (tháng 5-1945, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh đã bị máy bay Mỹ bắn chết sau một chuyến kiểm tra các cơ sở y tế ở Thái Bình). Mặc dù tự nhận là “dân chúng đòi hỏi và chờ mong rất nhiều mà Chính phủ chưa làm được gì đáng kể”, những việc mà Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm là rất ấn tượng: Yêu cầu Nhật chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam; Thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp; Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị; Cho phép thành lập các đảng phái chính trị; Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo; Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến Pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục. Chỉ trong gần 5 tháng tại vị, Chính phủ Trần Trọng Kim đã: Đưa chương tiếng Việt vào chương trình giáo dục thay thế tiếng Pháp (có vai trò quan trọng của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn); miễn thuế cho dân vô sản; hoãn nợ cho dân nghèo; đưa từ miền Nam ra miền Trung và miền Bắc gần hai nghìn tấn gạo; đại xá cho chính trị phạm; trừng trị một số quan lại tham nhũng; đề bạt một số quan lại trẻ… Tháng 8-1945, Nội các Trần Trọng Kim bắt đầu tan rã dần vì sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào có vũ trang của Việt Minh.
(516) Ngày 13-8-1945, người Nhật ở Hà Nội đã gặp Việt Minh tại phủ Khâm Sai, “mời Việt Minh tham gia chính phủ lâm thời Trần Trọng Kim” nhưng theo ông Trần Quốc Hương, phái viên của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hà Nội, Việt Minh đã từ chối. Ngày 14-8-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố công khai “vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật”.
Trước đó, ngày 12-8, Bộ trưởng Thanh Niên của Trần Trọng Kim, Luật sư Phan Anh, gửi điện cho các nơi nhắc nhở: “Chớ nhẹ dạ dễ bị lừa đảo vì bọn phiến loạn và bọn tuyên truyền có mục đích gieo sự loạn lạc vô trật tự”. Bọn “phiến loạn” mà ông Phan Anh nói trong bức điện trên đây được hiểu là “ám chỉ Việt minh”. Ngày 17-8-1945, khi “Tổng hội viên chức Hà Nội” tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại Nhà hát Tây để ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, những người cộng sản đã bí mật chuẩn bị để khi cuộc mit-tin vừa diễn ra, nhảy lên, cướp diễn đàn, biến cuộc mit-tin ủng hộ Trần Trọng Kim thành tố cáo Chính phủ của ông là “bù nhìn”. Một cuộc biểu tình khác được Xứ ủy quyết định sẽ tổ chức một hoạt động khác, lần này không chỉ là “cướp biểu tình” mà là chính thức “cướp chính quyền”. Ngày 19-8-1945, Việt Minh tràn ngập Bắc Bộ Phủ, nơi vốn là Phủ Thống sứ và khi ấy đang là văn phòng của Khâm sai Phan Kế Toại. Người Nhật sau đó đã triển khai một đơn vị xe tăng, hăm dọa cuộc biểu tình. Theo ông Mười Hương, đại diện Việt Minh đã nói với viên chỉ huy quân Nhật: “Nhật không nên can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”. Câu nói ấy có thể chỉ tình cờ phát ra để ngăn chặn một mối đe dọa tức thời nhưng cũng chứa đựng biết bao dự báo. Ngay lúc ấy, Quốc Dân Đảng và những người tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim đều được gọi là “Đại Việt gian”. Cuộc đấu tranh của những người cộng sản ở giai đoạn này chưa phải với ngoại xâm mà với những đảng phái không cộng sản.
(517) An toàn khu.
(518) Trần Nhâm, 2005, trang 14-15.
(519) Nền kinh tế Liên Xô đã được Stalin thiết kế dựa trên nền tảng lý thuyết mà Preobrajensky và Bukharin đã viết trong cuốn ABC của Chủ nghĩa Cộng sản, xuất bản năm 1919. Cho dù cả Bunkharin và Preobrajensky đều đã bị Stalin thanh trừng vào giữa thập niên 1930 nhưng cuốn sách của hai ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc. Từ lý thuyết của Preobrajensky và Bukharin và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô trong thập niên 1930, năm 1952, Stalin viết cuốn Những Vấn Đề Kinh Tế Của Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô. Năm 1953, các nhà lý luận Xô Viết đã dựa trên sách của Stalin để viết ra cuốn “Sách Giáo Khoa Kinh Tế Chính Trị Học”. Cả hai cuốn đã được in tới sáu triệu bản trong vòng hơn một năm và trở thành sách “gối đầu giường” của cán bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, năm 1953, Nhà Xuất bản Sự Thật đã dịch và xuất bản cuốn sách của Stalin; năm 1956, xuất bản cuốn Sách Giáo Khoa Kinh Tế Chính Trị Học.
(520) Hệ thống được Đảng Lao động Việt Nam thiết lập từ đầu thập niên 1950 và được gọi là Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, khi dời từ trong Chiến khu về Hà Nội. Ngay sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, ngày 22-12-1975, Ban Bí thư đã quyết định “mở rộng quy mô trường Nguyễn Ái Quốc, theo đó Trường phải “liên tục mở các lớp nghiên cứu sinh” để đưa số học viên từ 1.500 trong năm học 1975-1976 lên 1.800 rồi 2.000 học viên trong hai năm kế tiếp. Năm 1976, Ban Bí thư đã ra quyết định xây dựng trường Nguyễn Ái Quốc II tại Sài Gòn; Nguyễn Ái Quốc III tại Gia Lâm; Nguyễn Ái Quốc IV tại Đà Nẵng và, cuối năm 1976, cho xây dựng tại Hà Nội Trường Đảng Cao cấp Tại chức đảm bảo huấn luyện 3.000 học viên/năm.
Ngoài ra, cũng trong năm 1976, Ban Bí thư còn ra quyết định mở rộng Trường Tuyên huấn Trung ương ở Hà Nội và hai tháng sau đó ra quyết định xây dựng trường Tuyên huấn Trung ương II với quy mô 1.000 học viên tại Đà Nẵng.
(521) Như: Bộ trưởng, Thứ trưởng, Vụ trưởng, Trưởng ban các Ban của Trung Ương, Bí thư và Chủ tịch của các tỉnh, Bí thư và Chủ tịch của các huyện, giám đốc các xí nghiệp, Cục trưởng, Vụ trưởng, Viện trưởng...
(522) Novaya Economishéskaya Potika 
(523) Theo Giáo sư Trần Nhâm, thư ký của ông Trường Chinh.
(524) Lê Duẩn nhấn mạnh: “Trong chủ nghĩa tư bản, có tiền là mua được tất cả. Trong chủ nghĩa xã hội, đồng tiền không còn vị trí như vậy, cái quyết định là sử dụng lao động xã hội trên cơ sở làm chủ tập thể… Giá cả phải là giá có kế hoạch, hình thành từ trong sản xuất, chứ không phải hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường”. Ông đòi hỏi nhà nước phải nhanh chóng thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh những mặt hàng lớn. Lê Duẩn nói: “Phải chống khuynh hướng muốn lấy giá thị trường tự do làm tiêu chuẩn để định giá nhà nước, hoặc khóa tay chúng nó lại, không cho phép tự do mua bán lương thực, nông sản, hàng công nghiệp chủ yếu, tuyên chiến với bọn phá hoại, đầu cơ, buôn lậu, lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trên thị trường”.
(525) Trường Chinh chỉ ra bài toán về giá trước Hội nghị Trung ương: “Chúng ta đã bán vật tư với giá thấp, dưới 50% giá trị, khiến cho giá thành tính toán bị sai lệch rất xa so với thực tế, gây thiệt hại mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Với chính sách giá như vậy, hàng năm chúng ta đã để tuột ra khỏi tay mình một khối lượng lớn vật tư nhập khẩu. Đưa một tỷ rúp vật tư ra, ta chỉ thu về khoảng 20 tỷ đồng. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái 100 đồng/ rúp thì số mất lại càng lớn hơn, tới 130 tỷ đồng. Điện là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, chỉ có Nhà nước độc quyền kinh doanh, nhưng ta đã bán với giá rất thấp hơn hàng chục lần so với giá thành sản xuất, làm thiệt hại hàng năm gần tới gần 40 tỷ đồng. Xăng dầu, than, sắt thép, xi măng…tình hình cũng tương tự. Nhà nước mất mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Từ cuối năm 1983 lại đây, ta mới vận động mua công trái chưa được 2 tỷ đồng… đủ thấy mất mát của chúng ta quá lớn, không có nguồn thu nào bù đắp được”.
(526) Theo ông Trần Việt Phương: Trường Chinh và Lê Duẩn luôn thể hiện sự tôn trọng nhau. Tôi nghe cả hai ông kể về những ngày ở tù. Phía sau Hỏa Lò có một con đường chạy sang tòa án. Người Pháp thường đưa tù tử hình ra xử bắn ở đấy vào lúc 2-3 giờ sáng. Trường Chinh nói: “Có những lần chúng tôi đau mà không khóc, nhìn cảnh người ta xử tử ngay dưới lòng đường”. Họ là những người đã từng gắn bó nhau sinh tử. Lúc bấy giờ những người trong Bộ Chính trị chuẩn bị phát biểu gì đều gửi cho các ủy viên Bộ Chính trị khác để xin ý kiến. Lê Duẩn có một chỉ thị: “Nếu các ủy viên khác có ý kiến về bài của tôi thì phải cho tôi biết, nếu anh Năm chữa gì thì cứ thế mà chấp hành”. Ông Lê Duẩn biết ông Trường Chinh rất thận trọng. Trường Chính biết có những điều mình và Lê Duẩn không hợp nhau, nhưng ông không bao giờ chữa, chỉ chữa những lỗi chữ nghĩa.
(527) Nhiều tháng trước Hội nghị Trung ương 6, ông Lê Duẩn đã sử dụng mười chuyên gia giúp việc để chắp bút bản báo cáo này. Theo ông Trần Phương, người có tham gia thảo luận trong quá trình hình thành “mười quy luật kinh tế” của ông Lê Duẩn, các ông Trần Phương, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng, Đống Ngạc là người chấp bút chính bài phát biểu nói trên của ông Lê Duẩn.
(528) Trần Nhâm, 2005, trang 117.
(529) Sài Gòn Giải Phóng, 15-9-1985.
(530) Tuổi Trẻ, 16-9-1985.
(531) Trần Nhâm, 2005, trang 120-121.
(532) Trần Nhâm, 2005, trang 119.
(533) Sđd, trang 58-60.
(534) Tài liệu lưu trữ cá nhân của Giáo sư Trần Đình Bút.
(535) Nhà kinh tế học mà quan điểm của ông được áp dụng ở Tiệp Khắc hồi giữa thập niên 1960.
(536) Những phát biểu của Paskar và các ý kiến liên quan đến bài báo của Giáo sư Đào Xuân Sâm trong đoạn này được trích từ biên bản họp Hội đồng Bộ trưởng ngày 8-5-1986.
(537) Trần Nhâm, 2005, trang 270.
(538) Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 204.
(539) Theo ông Đoàn Duy Thành và Hoàng Tùng, tháng 12-1985, ông Lê Duẩn yếu dần và thường không còn tham gia họp Bộ Chính trị, Trường Chinh xử lý hầu hết các công việc trong Đảng. Thế nhưng, Lê Đức Thọ vẫn lên Hồ Tây thăm và xin Lê Duẩn: “Anh ốm, sức khỏe của anh bắt đầu hạn chế, anh giới thiệu với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương để tôi thay anh đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ, anh chưa thay tôi được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, Lê Đức Thọ lại đến, lần này đi hai vợ chồng. Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng. Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”.
(540) Bản ghi phát biểu của Lê Đức Thọ tại Hội nghị.
(541) Trước Đại hội V, tháng 3-1982, Lê Đức Thọ chuẩn bị một đề án thiết lập chế định Chủ tịch Đoàn trong Đảng, theo đó: năm vị đang giữ cương vị cao nhất trong Đảng sẽ giữ chức chủ tịch Đảng; Lê Duẩn, nhà lãnh đạo cao nhất sẽ giữ chức danh Chủ tịch Đoàn Chủ tịch; một trong năm vị chủ tịch sẽ giữ chức tổng bí thư, vị trí được cho là của Lê Đức Thọ. Theo ông Việt Phương, thư ký Tổng Bí thư Lê Duẩn, thì đấy là mô hình mô phỏng Trung Quốc; ở Trung Quốc khi áp dụng mô hình này, Đặng Tiểu Bình, tuy không ở trong Chủ tịch Đoàn nhưng đã giữ chức tổng bí thư, một cương vị tuy thấp hơn nhưng có thực quyền vì xử lý thường vụ mọi vấn đề trong Đảng. Đề án của Lê Đức Thọ đã làm cho nhiều người lo lắng: sau khi “tôn vinh” Lê Duẩn làm chủ tịch, thực quyền sẽ thuộc về “Tổng Bí thư” Lê Đức Thọ. Tuy nhiên, Lê Duẩn đã dập tắt ý định này khi mở đầu cuộc họp, ông tuyên bố: “Ở Việt Nam chỉ có Bác xứng đáng làm chủ tịch Đảng. Ai muốn làm chủ tịch thì cứ làm, tôi không dám”.
(542) Thoạt đầu, Tố Hữu được ông Lê Duẩn “bồi dưỡng” để kế nhiệm chức Tổng bí thư, nhưng thất bại của cải cách Giá- Lương-Tiền đã đánh mất nốt chút uy tín còn lại của một “nhà thơ đi làm kinh tế”.
(543) Tố Hữu không bị cách chức ông vẫn được đưa vào danh sách ứng cử vào Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VI nhưng thất cử (cùng với Hoàng Tùng).
(544) Ông Phạm Văn Đồng được những người giúp việc đánh giá là “một nhà văn hóa hơn là một nhà kinh tế”. Ông thường tự tay soạn thảo các phát biểu của mình rồi mới đưa cho thư ký chữa thay vì thư ký chuẩn bị như những người khác. Theo Việt Phương: “Ông nghĩ sâu xa cân nhắc trước khi viết ra, nói ra”. Bằng một thứ tiếng Pháp lưu loát, ông Phạm Văn Đồng rất dễ gây cảm tình với các nhà báo và các đồng sự quốc tế. Bên trong, với tác phong giản dị, nhân hậu, ông cũng có được sự yêu mến của cấp dưới và công chúng.
Ông Phạm Văn Đồng sinh năm 1906 ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Thường được gọi là anh Tô. Sự nghiệp cách mạng của ông bắt đầu từ phong trào bãi khóa chống Pháp của học sinh, sinh viên năm 1925, nhân đám tang của nhà chí sỹ Phan Châu Trinh. Năm 1926, ông sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 7-1929, ông bị người Pháp bắt, bị kết án mười năm tù và bị đày đi Côn Đảo. Mãi tới năm 1936, ông mới được ra tù để rồi năm 1940, cùng Võ Nguyên Giáp, bí mật sang Trung Quốc cùng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên giới Việt - Trung. Tại Quốc dân Đại hội Tân trào, năm 1945, ông được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm năm người thuộc Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.
Trong chính phủ đầu tiên của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng là bộ trưởng tài chính và sau đó kiêm thêm chức phó trưởng Ban Thường vụ Quốc hội. Tháng 6-1946, khi Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam từ chối đi Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, ông được Hồ Chí Minh cử thay Nguyễn Tường Tam làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia hội nghị. Từ tháng 7-1949, ông là phó thủ tướng duy nhất trong chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu, mặc dù, mãi tới Đại hội II, năm 1951, ông mới trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Ông Đồng là người nhận lãnh sứ mệnh lịch sử khi được cử làm Trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève về Đông Dương, nơi, ông ký vào bản Hiệp định chia Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc. Từ tháng 9-1955, ông làm thủ tướng rồi chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho đến năm 1987. Ông Phạm Văn Đồng đứng đầu chính phủ trong một giai đoạn mà nền kinh tế vận hành dựa trên nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung. Cả miền Bắc như một cỗ máy đã được lập trình, vai trò hình thành chính sách gần như không đáng kể. Cho dù, ông là người ký các nghị định của chính phủ ban hành chính sách cải tạo công thương nghiệp ở cả miền Bắc, hồi năm 1958, và miền Nam, năm 1977, Phạm Văn Đồng chỉ là người thừa hành chứ không phải là tác giả. Cũng có một số chính sách xuất hiện khi ông Phạm Văn Đồng còn là thủ tướng có tác dụng tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất kinh doanh như: Nghị quyết Trung ương 6, khóa IV, tháng 6-1979; Quyết định 25-CP, 21-1-1981. Nhưng, vai trò của Phạm Văn Đồng trong đổi mới là rất mờ nhạt. Theo Hà Nghiệp, vào thời điểm ấy, xung quanh Phạm Văn Đồng không còn người giỏi nữa. Trợ lý xuất sắc nhất của ông là Việt Phương, sau khi xuất bản tập thơ “Cửa Mở” đã bị tách ra.
Về đời tư, ông Phạm Văn Đồng là một người không may mắn. Năm 1946, ông lấy vợ, bà Phạm Thị Cúc, nhưng chỉ một tuần sau khi cưới, chiến tranh bùng nổ, ông được cử làm đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung bộ. Cuối năm 1948, bà Cúc được đưa vào với chồng. Sau nhiều tháng đi bộ, tháng 3-1949, bà tới nơi nhưng gặp chồng chỉ được chưa đầy tuần thì Phạm Văn Đồng lại có lệnh ra Bắc. Năm ấy bà Cúc chỉ mới hai mươi ba tuổi. Có lẽ hoàn cảnh ấy đã tác động lớn tới tinh thần của bà, năm 1950 bà bắt đầu bị bệnh tâm thần phân liệt. Ông Trần Việt Phương kể: “Lúc đầu chỉ là một cơn kịch phát sau đến mức bị trầm uất, các bác sỹ Nga và Trung Quốc đều tận tình nhưng rồi không chữa được. Một lần, các bác sỹ nhận thấy chị Cúc rất nhớ chồng. Họ nói với tôi là nên đưa chị về để anh chị gần nhau, hy vọng là điều ấy có thể giúp cải thiện tình trạng bệnh tình của chị. Tôi về, nói với Phạm Văn Đồng, anh đồng ý, chỉ nhờ tôi tìm giúp các phương tiện tránh thai. Hai ngày sau, Phạm Văn Đồng mang trả tôi các bao cao su rồi lắc đầu: họ nhầm. Về sau, chị Cúc được đưa về một ngôi nhà ở phố Phúc Hạo. Mỗi lần Phạm Văn Đồng ra, anh đưa tay cho vợ, chị Cúc cũng đưa tay ra, nhưng hai bàn tay run lên bần bật, chới với, mong muốn mà không nắm nổi tay chồng. Tôi nhận thấy cả hai, một tỉnh, một không, đều rất đau đớn”. Ông Phạm Văn Đồng sống cô độc như thế cho đến tận cuối đời cho dù nhiều lần, nhiều người trong Trung ương có khuyên ông lấy vợ. Ông Việt Phương nói: “Hồ Chí Minh ủng hộ lựa chọn này của Phạm Văn Đồng”. Bà Cúc kịp sinh cho ông một người con trai tên là Phạm Sơn Dương trước khi bệnh tình của bà trở nên vô phương cứu chữa.
(545) Ngày 20-9-1986, trên tờ Pravda, Gorbachev nói về “Đổi mới, làm chủ và sáng tạo”. Ngày 1-10-1986, Gorbachev cho rằng: “Cái cũ không dễ dàng đầu hàng, phải dũng cảm để đưa ra cái mới”. Ngày 11-10-1986, các báo Việt Nam vừa đưa tin về cuộc gặp giữa Gorbachev và Tổng thống Mỹ Reagan tại Iceland vừa đăng phát biểu của Gorbachev trước đó tại Đảng Khu ủy Graxnoda: “Dân chủ như không khí, như đòn bẩy nâng cả xã hội vào công cuộc đổi mới”.
(546) Chính những cải cách mà Gorbachev tiến hành vào tháng 2-1986 tại Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô như glasnost (mở cửa), perestroika (cải tổ)… đã dẫn đến chấm dứt hoàn toàn chiến tranh lạnh và làm sụp đổ căn bản hệ thống xã hội chủ nghĩa chỉ trong một nhiệm kỳ của Gorbachev.
(547) Theo Ogomolov: “Trong cải tổ kinh tế, có một số vấn đề then chốt mà, theo tôi, chúng ta sượng sùng lảng tránh. Đó là vấn đề thị trường dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ thị trường phần lớn được nhắc tới một các tiêu cực”. Sau khi phát biểu này đăng trên tờ Sự Thật, nhà kinh tế Clagoliev nói lại, cũng trên Sự Thật: “Trong tất cả các kiểu thổi phồng của tuyên truyền tư bản xét lại thì huyền thoại về thị trường là nguy hiểm hơn cả”.
(548) Phần chủ yếu phải viết lại trong Báo cáo Chính trị là phần kinh tế. Ba vấn đề lớn mà Tổ Biên tập báo cáo xin ý kiến Trưởng Chinh: Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khắc phục khuynh hướng ham công nghiệp nặng và công trình lớn, chuyển hướng đầu tư và phát triển sản xuất vào ba mục tiêu cơ bản và cấp bách để vượt qua khủng hoảng kinh tế- xã hội là lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng - hàng xuất khẩu; Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế cá thể và tư nhân còn cần thiết và tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể và kinh tế gia đình gắn với nó hợp thành lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; việc cải tạo các thành phần kinh tế khác là nhiệm vụ lâu dài, gắn với yêu cầu sử dụng, phát huy khả năng của họ theo phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Lúc này, mới chấp nhận kinh tế hàng hoá và sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chưa giải thoát được nhận thức coi kinh tế thị trường và cơ chế thị trường không dung hợp với chủ nghĩa xã hội.
(549) Tướng Lê Trọng Tấn cùng với Tướng Hoàng Văn Thái là hai chỉ huy quân đội đã sát cánh với Tướng Giáp suốt hai cuộc kháng chiến, cả hai người đều có mặt tại Điện Biên Phủ. Tướng Giáp cho rằng Lê Trọng Tấn là “một trong các vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại”. Chính Đại Đoàn 320 của Lê Trọng Tấn đã cắm cờ trên hầm De Castries, dành chiến thắng huy hoàng ở Điện Biên Phủ. Ba mươi mốt năm sau, cũng chính chiếc xe tăng 390 nằm trong Cánh Quân Phía Đông của Lê Trọng Tấn đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh thống nhất hai miền Nam Bắc. Ngày 18-10-1986, tại Đại hội Đảng Toàn Quân, Lê Trọng Tấn được bầu làm trưởng đoàn đại biểu quân đội đi dự Đại hội Đảng lần thứ VI.
(550) Ông Lữ Minh Châu kể rằng, tháng 6-1986, khi đang làm giám đốc Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, trong một ngày, ông nhận được điện của Ban Tổ chức Trung ương gọi ra Hà Nội. Cầm bức điện mật trong tay mà ông không rõ là bị “triệu” bởi một việc lành hay dữ. Đến chiều, ông biết mình trở thành tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin về Quyết định bổ nhiệm ông của Bộ Chính trị. Người mà ông Châu gặp khi ra tới Hà Nội không phải là nhân vật đứng đầu Chính phủ của ông mà là Lê Đức Thọ. Ông Đỗ Quốc Sam cũng được nhấc từ “ghế” Hiệu trưởng trường Đại học Xây dựng về làm Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng Cơ bản Nhà nước vào tháng 6-1982 theo cách đột ngột như vậy. Ông Sam kể lại rằng, khi ông đến dự phiên họp Chính phủ đầu tiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phải hỏi: “Anh là ai? Tại sao lại ngồi ở đây?”. Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng, đang làm thư ký phiên họp, đã phải đỡ lời: “Thưa, đây là anh Đỗ Quốc Sam, thành viên mới của Chính phủ ạ”.
(551) Lê Đức Thọ, Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
(552) Trích Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ: Trước Đại hội IV, anh Thọ kêu tôi đến gặp. Ngang Sở Nông nghiệp Thành phố, ngang đường Cách mạng Tháng Tám, có con đường đi sâu vô ruột khu phố, nơi có nhiều biệt thự do công an quản lý.
Tôi đến một biệt thự rộng lớn, anh Thọ bảo bảo vệ cán bộ nhân viên tản ra các biệt thự xung quanh, anh dắt tôi lên lầu, chỉ hai người ngồi bàn ngang nhau, anh có sổ và cầm viết ghi. Anh nói: “Tôi cần hỏi anh một số câu, để có quyết định về anh: quê anh thuộc về đảng bộ nào?”. Tôi nói, khi Châu Văn Liêm, thường vụ Xứ ủy, chuyển từ “Thanh niên Đồng chí Hội” sang lập “An Nam Cộng sản Đảng”, có đến công tác ở xã tôi. Anh Nhung ở Vĩnh Long làm thầy giáo ở Ô Môn, đã được Châu Văn Liêm kết nạp vào Đảng một lượt với Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp. Cùng lúc thành lập chi bộ Cờ Đỏ. Ngày đầu, đảng bộ quê tôi thuộc về đảng bộ Châu Văn Liêm. Trả lời xong câu hỏi này, thấy anh Sáu Thọ trầm ngâm. Lê Đức Thọ hỏi tiếp: “Anh có quen biết Trần Văn Giàu không?”. Tôi nói: “Lúc nhỏ đọc báo nói về vụ Des Champs, Pháp đưa hơn năm mươi người cộng sản bị bắt ra tòa, có viết những câu hỏi của tòa và trả lời của Trần Văn Giàu, tôi rất thích, như: Tòa hỏi: ‘Anh làm nghề gì?’; anh Giàu trả lời: ‘Tôi đã nói, tôi làm cách mạng chuyên nghiệp, còn làm nghề gì nữa’. Tòa hỏi: ‘Làm sao anh đi Nga được?’. Anh Giàu trả lời: ‘Tôi có ý chí làm cách mạng là tôi đi được’. Sau này gặp anh Giàu tôi thuật lại, anh Giàu cười nói: ‘Trước tòa tôi khai dóc chứ từ Pháp đi Liên Xô có gì là khó”. Sau khi xác minh thấy tôi “không có quan hệ gì với Trần Văn Giàu”, ông Lê Đức Thọ nói: “Tôi sẽ giới thiệu cho Đại hội, bầu anh vào Trung ương Đảng, sau khi đắc cử sẽ rút anh đi khỏi thành phố”. Thế là ông Mười Thơ trở thành ủy viên Trung ương khóa IV.
Đến Đại hội V, tháng 3-1982, tôi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng giới thiệu về tỉnh Hậu Giang ứng cử đại biểu đại hội V. Tôi dự cuộc họp Trung ương khóa IV, lần cuối, đóng góp dự thảo báo cáo Đại hội V và danh sách đề cử trung ương ủy viên, trong danh sách đầu tiên có tên tôi. Chiều lại, anh Sáu Thọ kêu tôi đến gặp. Tôi nói với các đồng chí trong Tổ: “Chắc tôi phải rút ra khỏi danh sách đề cử đây”; rồi cười xách cặp đi. Đến nhà khách của Ban Bí thư, tôi ngồi trên ghế salon cá nhân ngang mặt với Sáu Thọ, anh biểu qua ngồi ghế salon với anh, rồi nói: “Tôi đối với anh sao anh cũng biết, các đồng chí Bộ Chính trị găng với anh lắm, trong cùng khóa Ban Chấp hành Trung ương mâu thuẫn nhau, sẽ ảnh hưởng lãnh đạo chỉ đạo của Trung ương. Tôi đề nghị anh vì sự nghiệp lớn của Đảng, anh hi sinh cho chúng tôi đưa tên anh ra khỏi danh sách giới thiệu vào Trung Ương Khóa V. Sau Đại hội, công tác của anh ra Bắc vô Nam thoải mái”. Tôi phát biểu: “Tôi tham gia cách mạng hồi mấy tuổi, luôn được điều đi nơi khó, và được giao trọng trách lúc khó. Tôi không nghĩ có thể sống đến độc lập thống nhứt. Giờ đương còn sống là lời quá sức rồi, có gì không hi sinh được. Nếu thấy tôi ở Trung ương làm mất đoàn kết, trở ngại cho Trung ương phát huy vai trò, tôi sẵn sàng rút tên, các anh cứ bôi tên tôi khỏi danh sách đề cử vào Trung ương đi”. Nói xong, tôi đứng dậy chào và về tổ họp. Đến khi họp Trung ương, danh sách giới thiệu ra ứng cử không có tên tôi. Mười Kỷ đi gặp Lê Duẩn hỏi về chuyện bôi tên Mười Thơ trong danh sách đề cử vào Trung ương, ông Ba Duẩn nói: “Tôi không tán thành bôi tên Hai Văn, Mười Thơ, Năm Vận, Mười Kỷ”. Hôm khai mạc Đại hội Đảng lần V, trên đường vào hội trường, tôi gặp Mai Chí Thọ, anh ôm tôi rất tha thiết nói: “Trường đồ tri mã lực, cửu nhựt kiến nhân tâm” (Đường dài mới biết ngựa hay/ Lâu ngày lòng người mới tỏ). Giờ giải lao, anh Đinh Đức Thiện khều tôi ra sân nói: “Mầy cho tao kêu mầy bằng mầy, vì tao lớn hơn mầy nhiều tuổi. Tao đi hết các tỉnh miền Tây, nếu mầy như họ nói, không thể có miền Tây anh hùng như vậy. Tao nói với ông Sáu Thọ, giải quyết cán bộ như thế, sau nầy họ sẽ đào mồ, cuốc mả cha mẹ mình lên”.
Tôi nắm chặt hai tay anh Thiện nói: “Tôi nhận anh là anh tôi”. Cũng trong thời gian họp, anh Hai Văn điện thoại kêu tôi đến nơi ở đoàn đại biểu tỉnh Cửu Long gục đầu xuống bàn khóc, nước mắt chảy ướt mặt bàn. Sau Đại hội anh Nguyễn Văn Linh gặp tôi nói: Tôi có hỏi anh Sáu Thọ về việc bôi tên anh trong danh sách đề cử vào Trung ương, anh Sáu Thọ trả lời: “Tôi nói với nó, nó trả lời với tôi không đầy ba phút, đứng dậy đi, nếu nó năn nỉ tôi, tôi đã cho ở lại”. Tôi nói với anh Sáu Thọ: “Người cộng sản chân chính không bao giờ năn nỉ đâu”. Rồi anh Linh lại nói: “Tôi làm sao đấu tranh cho lẽ phải được, anh thấy hoàn cảnh tôi không, trong Đại hội nầy người ta vận động không bỏ thăm cho tôi, kết quả tôi đạt được số thăm đắc cử là may lắm”.
(553) Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
(554) Theo ông Nguyễn Đức Tâm, khi chưa thuyết phục được Bộ Chính trị rằng ai sẽ làm tổng bí thư, ông Tâm đã hỏi Lê Đức Thọ: “Tình hình khó khăn quá, anh nên nhận chức tổng bí thư đi, dễ thống nhất hơn?”. Lê Đức Thọ nói: “Mình đã nhiều tuổi, sức khỏe cũng kém, để đồng chí khác làm tốt hơn”(Bài viết của Nguyễn Đức Tâm do ông Nguyễn Đình Hương cung cấp).
(555) Thư ký của ông Trường Chinh, ông Trần Nhâm nói, Trường Chinh đã chịu áp lực, kể cả đe dọa, để buộc phải rút lui, nhưng ông Nguyễn Khánh thì cho rằng không có sự đe dọa.
(556) Bài phát biểu, còn được diễn đọc lại tại Đại hội Công khai vào ngày 18-12-1986, viết: “Chúng ta sắp bầu các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương mới… Trong danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, thể theo đề nghị của đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Đức Thọ, Đoàn Chủ tịch Đại hội nhất trí tôn trọng quyền không ứng cử của ba đồng chí vì tuổi cao, sức đã yếu. Cử chỉ cao đẹp của ba đồng chí làm nổi bật truyền thống quý báu của dân tộc ta, của Đảng ta là: Thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau và thế hệ sau kế tục trung thành sự nghiệp của thế hệ trước”. Sau khi “long trọng truyên dương” cả “ba đồng chí”, ông Phạm Hùng đề nghị “Đại hội trao trách nhiệm cao cả” làm cố vấn cho cả ba bậc công thần của Đảng.
(557) Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 70.

No comments:

Post a Comment