Chương 10: Đổi Mới
***
Từ chỗ tập trung vào tay nhà nước ruộng đất, nhà máy và tất cả các
quyền sản xuất, kinh doanh, từ tháng 12-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt
đầu cho phép “các thành phần kinh tế” được làm ăn một cách có giới hạn.
Đồng thời, nhà nướccũng từng bước cho tự do lưu thông hàng hóa trong
nước, để thị trường điều tiết giá cả thay vì lên kế hoạch và quyết định
bằng các mệnh lệnh hành chánh. Việc chấp nhận nền kinh tế vận hành theo
các quy luật gần giống như nó vốn có được Đảng gọi là “đổi mới”. Để đi
tới quyết định đó, các nhà khởi xướng cũng đã phải mất rất nhiều thời
gian để thuyết phục các đồng chí trong Đảng và thuyết phục chính mình.
Hội nghị Đà Lạt
Giữa năm 1983, khi đến làm việc tại nhà máy Viso, một trong những những
điển hình xé rào ở Sài Gòn, ông Trường Chinh nói với Giám đốc Nguyễn
Quang Lộc: “Nay tôi đến đây để nghe. Chú như một chuyên gia cứ báo cáo
hết chứ không phải lễ lạt gì”. Ông Lộc báo cáo xong thì đã mười một giờ
trưa. Bác sỹ riêng yêu cầu Trường Chinh nghỉ, nhưng ông nói: “Tôi phải
xuống xem nhà máy đã”. Năm ấy Trường Chinh bảy mươi lăm tuổi.
Sau khi trở lại sân chính, mọi người nhìn thấy ông, vây quanh. Theo ông
Lộc thì họ là những công nhân đã làm việc ở đây từ trước 1975, là những
người mà “cơ quan chức năng” từng nghi ngờ là “địch”. Trường Chinh nói:
“Phải chụp ảnh với giai cấp công nhân”. Chụp ảnh xong, ông ôm vai ông
Lộc ngay giữa sân: “Hôm nay bác chỉ dặn cháu một điều, làm gì thì làm
cũng phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Ông Lộc nhớ lại: “Tôi
có cảm giác đó là lời thầm thì của một papa”.
Sở dĩ những người như ông Trường Chinh và đa số trong Ban Bí thư lúc ấy
đồng ý với “Khoán 100”, theo ông Trần Đức Nguyên, là vì nó chưa đụng
đến chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Khoán ruộng cũng như “xé
rào”, để được chấp thuận thì điều quan trọng nhất là phải làm cho các
“Papa” tin rằng chúng không hề thách thức con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Ông Trường Chinh đến Viso từ một gợi ý của ông Võ Văn Kiệt. Theo ông
Đặng Xuân Kỳ, con trai ông Trường Chinh: “Anh Sáu Dân giúp ông cụ hiểu
thêm nhiều về thực tế, đặc biệt là từ Hội nghị Trung ương 6, giữa năm
1979. Anh khuyên cụ đi cơ sở nhiều hơn để trực tiếp nắm bắt tình hình”.
Tháng 9-1982, Bộ Chính trị vào làm việc tại Sài Gòn, phê phán xé rào hết
sức nặng lời, có người còn quy thành phố là “phản động”. Tại hội nghị,
theo ông Nguyễn Văn Huấn, thư ký của ông Kiệt: “Ông Tố Hữu bóng gió: Sáu
Dân định làm vua Sài Gòn”.
Cũng như ông Nguyễn Văn Linh, trong cuộc “làm việc” này, ông Kiệt chọn
con đường im lặng. Ông Kiệt và Thành ủy Thành phố nhận ra phải tìm một
con đường khác để từng bước thuyết phục trung ương thừa nhận nhận xé
rào. Con đường đó, theo ông Nguyễn Văn Huấn, khi ấy là thư ký riêng của
ông Kiệt, là: “Mời các anh Bộ Chính trị đi thực tế, xuống cơ sở, để các
anh ấy tự nhận ra làm ăn theo cách cũ là không được nữa”.
Trước đó, tháng 4-1983, ông Trường Chinh đã đến Tây Nguyên để tìm hiểu
cách “đồng bào Tây nguyên đi lên chủ nghĩa xã hội”. Tại đây, ông giật
mình khi biết trên văn bản nói là có 93% hộ dân Tây Nguyên đã vào tập
đoàn, hợp tác xã, nhưng hoạt động của mô hình “kinh tế xã hội chủ nghĩa”
đó chỉ là hình thức. Đồng bào vẫn du canh, phá rừng, làm rẫy với cách
canh tác lạc hậu như cũ; hợp tác xã vẫn phân phối theo lối bình quân vì
chưa biết tính toán định mức, cộng điểm. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, người
tháp tùng chuyến đi này: “Anh Y Ngông Niek Đam, bí thư Daklak, nhờ tôi
giúp báo cáo sự thật này vì anh ngại”. Nghe xong, ông Trường Chinh hỏi:
“Chả nhẽ ở dưới người ta nói dối Bộ Chính trị và Trung ương?”. Y Ngông
thật thà: “Dạ, nói dối”.
Theo ông Trần Đức Nguyên, thư ký của Trường Chinh, ngay trong chuyến đi
đó, ông Trường Chinh đồng ý cho Daklak tiếp tục chính sách giao đất,
giao rừng cho các hộ đồng bào dân tộc. Đồng thời, khi trở lại Hà Nội,
ông Trường Chinh đã “văn bản hóa” quan điểm này trong một chỉ thị của
Ban Bí thư do ông ký. Tháng 5-1983, sau nhiều chuyến “vi hành” trở về,
họp Bộ Chính trị, ông Trường Chinh phát biểu: “Chúng ta đang ở trong
tình hình nói dối phổ biến mà mọi người làm như là không nói dối”.
Sau chuyến đi đến nhà máy Viso, ông Trường Chinh muốn chia sẻ những vấn
đề ông ghi nhận được từ hiện tượng xé rào mà ông Võ Văn Kiệt nhen nhúm
và cắm cờ điển hình từ năm 1979. Tháng 7-1983, nhân khi có một số vị
trong chính phủ khác đang cùng ông nghỉ tại Đà Lạt, Trường Chinh đã liên
hệ với Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu có báo cáo chính thức về
“xé rào”.
Bí thư Thành ủy lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh xuống Viso nói với ông
Lộc: “Lộc ơi, ta phải đi Đà Lạt. Các anh lãnh đạo đang nghỉ trên đó”.
Ông Lộc hỏi: “Làm gì anh Mười?”. Mười Cúc: “Tôi cho rằng anh Trường Chinh
muốn các anh ở ngoài kia hình dung được công việc của các cậu. Các cậu
cũng phải gặp để các anh ấy biết một tầng lớp cán bộ mới”. Ngoài Nguyễn
Quang Lộc, giám đốc Viso, “tùy tùng” ông Linh bao gồm những “điển hình
xé rào” của ông Võ Văn Kiệt: Lê Đình Thụy, giám đốc Thuốc lá Vĩnh Hội;
Nguyễn Thị Lý, giám đốc Dệt Việt Thắng; Trần Tựu, giám đốc Dược phẩm
2-9.
Ông Lộc nhớ lại: Lê Đình Thụy vào phòng họp vừa nhìn thấy các “papa”
liền khóc rống lên. Ông Phạm Văn Đồng mắng: “Làm sao anh khóc?”. Ông
Thụy mếu máo: “Chúng tôi khổ quá, được giao kế hoạch mà trên không cân
đối vật tư, phải tự chạy vạy để hoàn thành kế hoạch trên giao và nuôi
sống công nhân. Vậy mà không được động viên lại còn nay đòi thanh tra,
mai đòi bắt”. Ông Đồng lại mắng: “Khi người ta giao kế hoạch người ta
phải cân đối chứ. Tại sao có thể thế được?”. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Võ Chí Công nói: “Nó giao đại thể thế chứ không có cân đối đâu
anh ơi”. Ông Đồng nói: “Tại sao không báo Đỗ Mười?”. Ông Công: “Trên nó
còn thứ trưởng, bộ trưởng làm sao nó lên tới phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng mà báo cáo được”.
Cũng tại Hội nghị Đà Lạt, ông Trường Chinh đã nghe ông Phan Văn Khải,
phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh, và ông Mười Phi, giám đốc ngoại
thương, nói về “xé rào” trong hoạt động của khối phân phối lưu thông.
Theo ông Nguyễn Quang Lộc: “Sau bốn ngày lắng nghe, ông Trường Chinh ra
ôm vai chúng tôi, nói: Các chú gặp khó khăn nhưng đã rất dũng cảm. Phàm
là một người cộng sản, chúng ta đừng sợ khó khăn, đừng sợ sai lầm, sai
thì sửa. Nhưng gì thì gì, phải kết hợp tốt giữa lý luận với thực tiễn”.
Từ cuối tháng 12-1981, ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội làm chủ nhiệm Ủy Ban
Kế hoạch Nhà nước. Sau hai năm ngồi ở trung ương, ông nhận ra nếu không
“tháo gỡ được cách nhìn thì sẽ không tháo gỡ được cơ chế”. Ông Kiệt gặp
Bùi Văn Long, tổng giám đốc Liên hiệp Dệt, đề nghị tổ chức hội nghị
ngành dệt để các giám đốc nói hết những ách tắc của mình. Ông Kiệt dặn:
“Mời được càng nhiều lãnh đạo trung ương về nghe càng tốt”.
Tháng 4-1984, tại khuôn viên công ty Dệt Phước Long, hơn hai mươi giám
đốc trong và ngoài ngành dệt đã báo cáo trước 200 đại biểu gồm lãnh đạo
các tỉnh, thành phố, các bộ, ban ngành và gần như đầy đủ các vị trong
Hội đồng Bộ trưởng. Tuy hội nghị khá dài, kéo tới ba ngày, nhưng không
khí càng về sau càng cởi mở. Trả lời một chất vấn về chính sách “hạch
toán hai sổ”, Tổng Giám đốc Bùi Văn Long nói thẳng: “Đúng là tôi có hai
sổ: một sổ ghi thu chi các sản phẩm đầu vào theo giá nhà nước, hợp pháp
nhưng không hợp lý; một sổ ghi thu chi theo giá thật trên thị trường,
hợp lý nhưng không hợp pháp. Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên, sổ hợp lý
để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ: Tôi mua cây tre, người ta chỉ bán với
giá 1,5 đồng một cây nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép mua với giá một
đồng một cây. Tôi đành nói anh em mua một cây tre rồi chặt ra làm đôi,
tính hai cây để ghi vào sổ cho hợp pháp” (510).
Những hội nghị như Đà Lạt hay Dệt Phước Long đã giúp các nhà lãnh đạo
nghe được trực tiếp những gì đang diễn ra thay vì nghe qua các báo cáo
mà, theo ông Trần Nhâm, thường không phản ánh đúng thực tế, cho dù được
đóng dấu “mật” và chỉ lưu hành trong nội bộ. Nếu như những người như ông
Võ Văn Kiệt không tạo ra thực tiễn xé rào thì những người như ông
Trường Chinh sẽ không nhìn thấy sự bức bối của cơ chế. Nhưng nếu như ông
Trường Chinh không đủ bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy để giải
thích thực tiễn và chuẩn bị cơ sở lý luận thích hợp với môi trường chính
trị lúc bấy giờ thì ông cũng khó mà thuyết phục được các đồng chí của
ông trong Đảng.
Nhóm giúp việc mới
Sau chuyến đi Tây Nguyên, ông Trần Đức Nguyên bị điều đi khỏi văn phòng
Trường Chinh. Ông Trần Nhâm, một đồng nghiệp của ông Nguyên, cho biết:
“Lý do công khai để Ban Tổ chức thay anh Nguyên là vì anh Nguyên có một
người chị định cư ở Pháp. Thời ấy lý lịch như thế là ghê lắm”. Nhưng,
cũng theo ông Nhâm, nguyên nhân sâu xa là do trong các cuộc làm việc
chung của nhóm, ông Trần Đức Nguyên hay “nhận xét về các nhà lãnh đạo
khác”. Một người trong nhóm giúp việc đã ghi lại đầy đủ các phát ngôn
này và sau đó đi báo với Ban Tổ chức.
May mắn là chỗ trống của ông Nguyên đã được “điền” bằng ông Hà Nghiệp,
một nhà nghiên cứu xuất sắc của thập niên 1980. Ông Hà Nghiệp lúc ấy
đang làm vụtrưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng Trung ương Đảng. Ông có bằng đại
học và phó tiến sỹ về cơ khí ở Liên Xô, về nước giảng dạy ở trường Đại
học Bách khoa. Năm 1975 ông được trưng tập vào Nam tiếp quản các cơ sở
kinh tế, rồi về công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng. Khi ấy, ông Trần
Đức Nguyên cũng được điều từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Văn phòng Trung
ương. Ông Nguyên kể: “Hai chúng tôi thường làm việc với nhau, rất thân
nhau, hiểu nhau vì Vụ của anh Nghiệp đảmnhiệm chính công tác nghiên cứu,
biên tập phục vụ Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Tôi đặc biệt quý anh Hà
Nghiệp ở cách nghĩ không bị gò vào khuôn khổ thông thường mà luôn luôn
tìm tòi cái mới phù hợp với thực tế. Hồi đó, những người có tư tưởng đổi
mới rất dễ bị phê phán. Anh Hà Nghiệp nói vui: những người này phạm sai
lầm vì đúng quá sớm”.
Theo ông Đặng Xuân Kỳ, chính ông Trường Chinh đã yêu cầu Ban Tổ chức
chọn đích danh ông Hà Nghiệp. Tháng 7-1983, khi đang ở miền Nam để chuẩn
bị cho Hội nghị Đà Lạt, Trường Chinh đã cho gọi Hà Nghiệp vào dù khi ấy
thủ tục Ban Tổ chức làm vẫn chưa hoàn chỉnh. Ở Văn phòng Trung ương, Hà
Nghiệp nổi tiếng luôn “nói ngược”. Theo ông Trần Nhâm: “Một vị lãnh đạo
trong Văn phòng Trung ương cũng muốn đẩy đi, vì nghĩ kiểu Hà Nghiệp chỉ
có thể làm việc với cụ Trường Chinh không quá ba tháng. Không ngờ, ở
càng lâu Hà Nghiệp càng trở thành một trợ lý mà ông Trường Chinh tâm đắc
nhất”.
Ông Đặng Xuân Kỳ cho rằng: “Sẽ không có Trường Chinh của năm 1986 nếu
như đầu thập niên 1980 ông không tự mình lựa chọn những người giúp
việc”. Ông Đặng Xuân Kỳ kể: “Tôi học ở Nga tới năm 1965. Sau hai năm về
nước, tôi nhận ra bộ máy của mình có vấn đề. Tôi đề nghị cha tôi bắt đầu
từ việc đổi mới bộ máy giúp việc cán bộ chủ chốt. Nhiều người trong số
họ xa rời thực tế, chỉ dựa dẫm vào tiếng tăm các nhà lãnh đạo để hưởng
bổng lộc. Nhưng năm ấy cụ không nghe tôi. Phải tới năm 1972, cha tôi mới
thừa nhận là cần phải thay người Trợ lý số Một. Nhưng khi thay xong,
tôi nói với ông: ‘Người này cũng không khác những người trước’. Cha tôi
bảo: ‘Đây là người Ban Tổ chức đưa về mà?’. Tôi nói: ‘Nhưng vẫn không
phải là người ta cần’. Cha tôi ngạc nhiên: ‘Tổ chức thì làm sao sai
được?’ ”.
Quyền lực của Ban Tổ Chức Trung ương dưới thời Trưởng Ban Lê Đức Thọ có
mặt gần như ở khắp nơi. Nhưng theo ông Kỳ: “Từ năm 1980, cha tôi không
để cho ông Lê Đức Thọ can thiệp nữa. Cụ tự chọn lấy những người giúp
việc, và nếu Ban Tổ chức không đồng ý ai, cụ yêu cầu phải giải thích”.
Cuối năm 1983, ông Trường Chinh nói với ông Hà Nghiệp và Trần Nhâm:
“Tình hình cấp bách, nếu cứ tiếp tục như thế này, đất nước sẽ bế tắc”.
Ông yêu cầu lậpmột nhóm nghiên cứu tư vấn. Ông dặn: “Phải chọn những
người có đầu óc mới mẻ, hiểu chính sách kinh tế mới”. Nhóm nghiên cứu
ngay sau đó được hình thành.
Ngoài Hà Nghiệp và Trần Nhâm, nhóm còn gồm Đào Xuân Sâm, chủ nhiệm Khoa
Quản lý Kinh tế của Học viện Nguyễn Ái Quốc; Lê Xuân Tùng, phó chủ
nhiệm khoa của học viện này kiêm thư ký của ông Lê Đức Thọ; Võ Đại Lược,
viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới; Dương Phú Hiệp, phó viện trưởng Viện
Triết học; Lê Văn Viện, giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội,
đang làm chuyên gia giúp tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; một
phó Ban Cơ yếu Trung ương và ba chuyên viên cao cấp Ban Kinh tế Trung
ương, Nguyễn Thiệu, Trần Đức Nguyên và NguyễnVăn Đào nguyên thứ trưởng
Bộ Ngoại thương.
Giáo sư Dương Phú Hiệp nói: “Trước đó đã có tiền lệ Tổng Bí thư Lê Duẩn
lập ra nhóm nghiên cứu về Làm Chủ Tập Thể, nên ông Trường Chinh cũng có
cơ sở để báo cáo với Bộ Chính trị về việc hình thành nhóm nghiên cứu
của ông”. Theo Giáo sư Hiệp, trong buổi gặp đầu tiên, ông Trường Chinh
nói: “Tôi biết các đồng chí lànhững nhà khoa học, những người yêu nước,
muốn đóng góp. Tuy nhiên, nếu phát biểu ra ngoài những ý kiến mạnh mẽ
bây giờ rất dễ bị quy chụp. Nhưng ở đây, chúng ta cứ nói thẳng, nói hết,
để tôi tìm cách nói lại trong Bộ Chính trị, để Bộ Chính trị tìm biện
pháp khắc phục những thiếu sót của đất nước”.
Trong các cuộc họp của nhóm nghiên cứu, ông Trường Chinh chỉ nghe và
hỏi thêm chứ không phát biểu ý kiến hay kết luận. Theo ông Trần Đức
Nguyên: “Ôngmuốn chúng tôi thật sự phát huy tự do tư tưởng, không bị
trói buộc bởi những quan điểm giáo điều, bảo thủ”. Trường Chinh nói với
nhóm nghiên cứu: “Tôi lắng nghe các đồng chí, nhưng vì tuổi cao, ghi
chậm nên việc ghi chép xin nhờ mấy đồng chí thư ký của tôi giúp”. Nhưng
khi các chuyên gia phát biểu, ông không chỉ lắng nghe mà còn mở sổ, cặm
cụi ghi chép với một thái độ trân trọng và khiêm tốn. Phương pháp của
ông Trường Chinh đã tạo ra một không khí làm việc hết sức cởi mở trong
nhóm.
Một lần, khi ông Trường Chinh hỏi Giáo sư Dương Phú Hiệp: “Khi nào thì
ta có thể kết thúc chặng đường đầu? Khi nào thì ta có thể kết thúc thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội?”. Giáo sư Hiệp trả lời: “Thưa bác cháu
chưa biết”. Ông Trần Nhâm và ông Hà Nghiệp nói: “Anh là chuyên gia về
phân kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội mà?”. Ông Dương Phú Hiệp chậm rãi: “Để
trả lời câu hỏi này, cho phép cháu kể một câu chuyện ngụ ngôn Nga”. Mặc
dầu ông Trường Chinh nói: “Đang làm kế hoạch mà nói chuyện dân gian Nga
à?”. Nhưng ông có vẻ thích thú, bước tới đứng sát nơi ông Hiệp ngồi,
lắng nghe.
Giáo sư Hiệp kể: Một người đi đường, khi ra tới bìa rừng thì gặp một
bác tiều phu, ông dừng lại hỏi: “Bác ơi, khi nào tới bến sông?” Người
tiều phu trả lời: “Không biết”. Người đi đường thất vọng bước tiếp và
sau khi đi được chừng mươi bước, bác tiều phu gọi giật lại bảo: “Còn bốn
giờ nữa”. Người đi đường ngạc nhiên: “Sao nãy bác không nói?” Bác tiều
phu: “Khi nãy anh đứng tôi không biết, giờ anh đi tôi mới biết”. Rồi ông
Dương Phú Hiệp quay về phía ông Trường Chinh: “Thưa bác, hiện nay ta
chỉ dẫm chân tại chỗ chứ không đi nên thật khó trả lời là đến khi nào
thì đi hết thời kỳ quá độ”.
Ông Trường Chinh nghe xong, cười và nói: “Đồng chí văn nghệ thì để tôi
cũng góp chút văn nghệ”. Ông đọc bài Tiết Lập Xuân của Cao Bá Quát: “Khứ
nhật xuân lai phá cựu hàn / Kim chiêu hồng tử đấu thiên ban / Hà đương
thế sự như hoa sự? / Phong vũ giang sơn tận cải quan”, rồi đọc phần dịch
thơ của ông: “Hôm trước xuân về tan giá lạnh / Sáng nay muôn tía đấu
ngàn hồng / Việc đời ví được như hoa nhỉ /Mưa gió qua rồi đẹp núi sông”.
Ông nói với anh em giúp việc: “Giờ ta đang khó khăn nhưng đừng bi quan
quá. Mây tan, gió tạnh sẽ về thôi”.
Không bi quan không có nghĩa là mũ ni che tai, ông Trường Chinh tìm
cách để hiểu những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Một hôm, Giáo sư
Dương Phú Hiệp tới trễ. Ông Trường Chinh hỏi thăm, ông Hiệp nói: “Đêm
qua cháu phải thức đêm xách nước bác ạ”. Ông chép miệng: “Vất vả nhỉ”.
Ông Hiệp nói: “Không phải mình cháu. Các khu tập thể ở Hà Nội đều thiếu
nước, người dân phải xếp hàng tới khuya mới hứng được vài xô nước mang
về dùng. Bác ạ, bên ngoài người ta đang hát: Đêm đến cả nhà lo việc nước
/ Sáng ra cả nước lo việc nhà”. Theo ông Trần Nhâm, từ đó, Trường Chinh
yêu cầu thu thập những câu nói trong dân gian, đặc biệt là những chuyện
tiếu lâm chính trị như là một phần giúp ông hiểu tâm tư nguyện vọng của
dân chúng.
Thập niên 1980 có lẽ là giai đoạn để lại nhiều chấn thương cả về thể
chất lẫn tinh thần cho người Việt nhất. Những người lính tham gia hai
cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Campuchia không còn có cái hào
hùng của những người lính trên đỉnh Trường Sơn năm xưa. Không còn những
bộ quân phục vải Tô Châu xanh bền, phải lăn lộn trên các chiến trường
giá rét ở phía Bắc, gay gắt ở Tây Nam, bộ ka ki Vĩnh Phú của người lính
nhanh chóng rách gối, thủng đít. Bộ đội có sáng kiến cắt ống, quay phần
lành lặn từ phía sau lên thay cho đầu gối và gọi đấy là “ưu tiên phía
trước”.
Cuộc sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây
đinh phải đăng ký / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu /
Thuốc điếu phải mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an /
Lang thang đi cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học trò không có tập… Đầu
thập niên 1980, ở Sài Gòn có khoảng năm vạn sỹ quan, công chức được tha
về từ các trại cải tạo. Họ đương nhiên là không thể xin việc làm, chỉ có
thể kiếm sống qua ngày bằng cách ra đường. Các sỹ quan cách mạng, những
người hùng ngày nào giờ đây cũng: Đầu đường đại tá bơm xe / Giữa đường
trung tá bán chè đỗ đen / Cuối đường thiếu tá buôn kem… Cho dù bộ máy
tuyên truyền hoạt động hết công suất nhưng tinh thần của dân chúng dường
như không còn có khả năng gượng dậy (511).
Mãi cho tới gần cuối thập niên 1980, ngay tại những thành phố lớn như
Hà Nội, Sài Gòn, người dân vẫn phải xoay xở bằng cách nuôi heo, nuôi cá
trê phi để sống. Nhiều người “sống chung với heo” trong những căn hộ
chật chội trên tầng năm, tầng tám. Ở Hà Nội, cán bộ viên chức cũng phải
xoay xở. Có một giai thoại nổi tiếng về Giáo sư Văn Như Cương: Ông bị
người dân trong một khu tập thể ở Hà Nội kiện vì nuôi lợn trong căn hộ
của ông ở tầng hai làm mất vệ sinh. Chính quyền khu phố tới nhà phê bình
và ghi vào biên bản: “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn ở tầng hai”. Ông
không phản đối nhưng trước khi ký nhận chỉ xin sửa lại: “Lợn nuôi Giáo
sư Văn Như Cương ở tầng hai”.
Bằng nhiều kênh khác nhau, có khi qua nhóm nghiên cứu, qua những người
giúp việc, có khi qua những người trong gia đình hoặc những cán bộ cương
trực nói lại, ông Trường Chinh nghe được khá đầy đủ sự ta thán của dân
tình. Người dân gọi những năm đầu thập niên 1980 là thời kỳ
“Ba-Đồng-Chinh” (512). Có những câu đồng dao được mọi người đọc cho nhau:
“Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh / Ba anh có biết dân tình sao không / Rau
muống nửa bó một đồng / Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân”.
Theo ông Đặng Xuân Kỳ thì cha ông còn dũng cảm để nghe cả những tiếu
lâm chính trị nói trực diện tới mình. Một trong những tiếu lâm đó được
kể: Một hôm, ba nhà lãnh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến
chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy dân tình nheo nhóc, đói khát, mặt mũi
thểu não. Bỗng một người hỏi: “Bây giờ mình ném cái gì xuống thì đám dân
ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?”. Bác Đồng nói trước: “Chắc họ đang đói.
Hãy ném cho họ mấy bữa cơm không độn”. Bác Chinh cho rằng: “Điều họ
thiếu là lý tưởng. Hãy ném cho họ lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội”. Bác Duẩn lắc đầu: “Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ
tập thể”. Trong khi ba bác còn chưa thống nhất được nên ném gì cho dân
thì anh phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: “Dạ thưa, cháu có ý
kiến được không ạ?”. Ông Lê Duẩn nói ngay: “Tại sao không? Cứ phát huy
dân chủ”. Bấy giờ anh phi công mới nói: “Dạ, muốn cho đám dân tình dưới
đó reo vang hạnh phúc thì chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay
thôi ạ”.
Người của những khúc quanh lịch sử
Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp
chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về
sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên
1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính
những đường lối của mình (513).
Tháng 1-1941, Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó, Cao Bằng, sau ba mươi năm “bôn
ba”. Tại đây, tháng 5-1941, ông chủ trì Hội nghị Trung ương 8: Trường
Chinh chính thức được bầu làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm
trưởng Ban Tuyên huấn. Từ đầu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã trở lại Trung
Quốc và tháng tám năm ấy bị Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giam. Mọi công
việc tuyên truyền chuẩn bị đều do Trường Chinh tổ chức thực hiện. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, là do anh
Trường Chinh”. Đặc biệt, trong giai đoạn “tiền khởi nghĩa”, vai trò
quyết định là của Trường Chinh. Công cụ cách mạng sắc bén nhất của
Trường Chinh giai đoạn này là ngòi bút (514).
Ngày 8-3-1945, sau khi phân tích các nguồn tin, Trường Chinh nhận định:
“Nhật sắp lật Pháp”, rồi lập tức triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung
ương mở rộng tại chùa Đồng Kỵ. Chập choạng tối 9-3-1945, trong cuộc họp
có mặt Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị,
Nguyễn Văn Trân…, khi Tổng Bí thư vừa tuyên bố lý do họp thì tiếng chó
rộ lên, đồng thời có người đập cửa dồn dập. Sư cụ cho chú tiểu ra mở
cửa, thấy hai bóng người tay cầm đèn pin bước vào. Sư cụ liền: “chào
thầy phó, thầy trương” thật to để báo động.
Cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương phải chuyển sang “phương án hai”. Các
nhà lãnh đạo Đảng nhanh chóng thu xếp giày dép, khăn áo, chui qua bụi
tre sau chùa, theo hướng nam, đi sang làng Đình Bảng. Vừa vượt qua đường
xe lửa, tới địa phận Đình Bảng thì nghe tiếng súng nổ dữ dội phía Hà
Nội. Ông Trường Chinh reo lên: “Nhật, Pháp bắn nhau rồi anh em ơi!”. Lúc
đó là đúng 8 giờ 25 phút tối ngày 9-3-1945. Sau Hội nghị, Trường Chinh
lánh sang chùa Dận, viết Chỉ thị: “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của
chúng ta”, bản chỉ thị ngay sau đó, được bí mật in ấn để phát đi toàn
quốc (515).
Trước khi Hồ Chí Minh từ Trung Hoa trở về Pac Bó, Trường Chinh đã triệu
tập và chủ trì Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, chủ trương lập “bảy
chiến khu cách mạng” và “thống nhất các lực lượng vũ trang”. Theo ông
Trần Quốc Hương, trước khi lên Tân Trào, biết Hồ Chí Minh đang bệnh,
Trường Chinh quay lại ATK ngoại thành, gọi Mười Hương ra nói: “Tôi phải
lên chiến khu ngay. Trung ương cần một bác sĩ và một số thuốc để đưa lên
ấy phục vụ cách mạng”. Bác sỹ Lê Văn Chánh được Mười Hương tiến cử đã
theo ông Trường Chinh mang theo dụng cụ y tế và thuốc men lên Việt Bắc.
Theo dặn dò của ông Trường Chinh, tối 15-8-1945, sau khi biết chắc Nhật
xin đầu hàng Đồng Minh, ông Nguyễn Khang triệu tập Hội nghị Xứ ủy gồm:
Lê Liêm,Trần Tử Bình, Nguyễn Văn Lộc… Tại làng Vạn Phúc, chỉ thị ngày
12-3-1945, “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trường
Chinh lại được đưa ra thảo luận. Sau khi phân tích những điều kiện “tất
yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa” mà Trường Chinh chỉ ra, các ủy viên dự họp
đã reo lên: “Thế này là đúng rồi. Ta phải lãnh đạo quần chúng nổi dậy,
tổng khởi nghĩa ngay lập tức!”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban
Quân sự Cách mạng Bắc Bộ để lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa trong
phạm vi mười tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Trong khi các đại biểu đang ở Tân Trào để dự đại hội do Hồ Chí Minh chủ
trì, các địa phương đã theo chỉ thị của xứ ủy, lần lượt nổi dậy chiếm
phủ, huyện rồi tiến vào chiếm tỉnh lị. Ở Hà Nội, Ủy ban Quân sự Cách
mạng được thành lập do Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang trực tiếp làm
chủ tịch để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Lấy danh nghĩa Kỳ bộ Việt Minh, Xứ ủy ra một bản thông báo cho các địa
phương tiến hành khởi nghĩa dành chính quyền. Ngày 19-8-1945, lực lượng
của Nguyễn Khang chiếm Phủ Khâm sai (516).
Khi Hà Nội đã rực trong cờ đỏ sao vàng, các đại biểu đi dự Đại hội Quốc
dân ở Tân Trào vẫn chưa rời căn cứ. Xứ ủy Bắc Bộ và Thành ủy Hà Nội lập
tức cử đại diện lên chiến khu “mời Bác và trung ương” về, các đại diện
này đi đến Thái Nguyên thì gặp ông Trường Chinh, cũng đã nghe tin, đang
trên đường từ Tân Trào xuôi về. Chiều ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh và tùy
tùng theo đường sông Hồng về đến Chèm. Các cán bộ thuộc “Công tác Đội”
đón và bố trí ông ở nhà bà Chánh Hai ở Phú Thượng, một cơ sở của xứ ủy
nằm trong ATK (517). Sẩm tối ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh được ông Trường
Chinh đón bằng một chiếc xe hơi hiệu Citroen. Chiếc Citroen mang biển số
T.A.20 này, hôm 19-8-1945, đã được ông lái xe tên là Nền lái đưa ông
Nguyễn Khang đi khắp Hà Nội chỉ huy khởi nghĩa. Sau khi đón ông Trường
Chinh từ Phù Đổng về, ông Nguyễn Khang đã giao chiếc xe lại cho tổng bí
thư.
Trường Chinh đưa Hồ Chí Minh về 35 Hàng Cân, mặt sau nhà 48 Hàng Ngang
của ông bà Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng ở Hà Nội. Hàng ngày,
sau khi ăn sáng tại nhà Trịnh Văn Bô, Hồ Chí Minh làm việc tại nhà hoặc
ra Bắc Bộ phủ. Còn ông Trường Chinh thì từ hôm 26-8 đã tạm dời sang số 6
phố Hàng Đào.
Khi Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp, ông Trường Chinh không
nắm giữ chức vụ nào. Trong thời gian Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào
hoạt động bí mật, ông làm hội trưởng “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở
Đông Dương”. Tại Đại hội Đảng lần II, ông chính thức trở lại làm tổng bí
thư, lúc này, Đảng đã đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1953, khi Cụ Hồ đồng ý với Stalin và Mao Trạch Đông thi hành cải
cách ruộng đất, Trường Chinh là “trưởng Ban Cải cách Trung ương”. Ba năm
sau, tháng 9-1956, khi Trung ương “sửa sai”, ông phải đứng ra nhận lãnh
trách nhiệm bằng cách từ chức. Chức vụ nhà nước đầu tiên mà ông được
giao là phó thủ tướng chính phủ kiêm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước
(năm 1958). Tháng 7-1960, ông được cử làm chủ tịch Quốc hội, và nắm giữ
chức vụ này hơn hai mươi năm. Tháng 7-1981, ông chuyển sang làm chủ tịch
Hội đồng Nhà nước. Thời kỳ này, theo ông Trần Nhâm: “Văn phòng đồng chí
Trường Chinh nhận được hàng trăm, hàng ngàn báo cáo, kiến nghị của các
cơ quan, các cấp, các ngành và địa phương cùng với thư từ của cán bộ,
đảng viên và nhân dân khắp nơi tới tấp gửi về” (518).
Từ chính sách Kinh Tế Mới
Ông Trường Chinh cùng nhóm nghiên cứu của ông đã chọn điểm bắt đầu bằng
cách “nhận thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin”.
Mô hình “xã hội chủ nghĩa” mà Liên Xô buộc các nước phải tuân thủ (519) đã
được chính thức giảng dạy trong hệ thống các trường đảng của Việt
Nam (520). Kinh qua những khóa học ở trường đảng là tiêu chuẩn bắt buộc để
một người có thể đảm đương các cương vị lãnh đạo chủ chốt (521). Tính đến
đầu thập niên 1980, có hơn một triệu người Việt Nam đã được giáo dục về
mô hình Stalin ở trong các trường của Đảng. Chỉ có nhân danh chủ nghĩa
Marx-Lenin mới có thể làm thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ đó.
Lúc này, các nhà nghiên cứu như Hà Nghiệp, Đào Xuân Sâm, Trần Đức
Nguyên đã có một thời gian tiếp xúc với “chính sách kinh tế mới của
Lenin”, thông qua những khóa học do các chuyên gia Liên Xô giảng dạy.
Năm 1978, khi nhận ra những hạn chế về lý luận của đội ngũ cán bộ các
cấp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bộ Chính trị làm việc với Học
viện Chính trị Quốc gia và Viện Quản lý Trung ương, đặt vấn đề phải dạy
quản lý kinh tế cho cán bộ cao cấp.
Thời gian này ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đang “dò đá qua sông”, chấp
nhận cả “mèo trắng lẫn mèo đen miễn là bắt được chuột”. Vận nước thật
trớ trêu – Việt Nam đã không ít lần lệ thuộc Trung Hoa, nhưng đã không
“lệ thuộc” những khi Trung Quốc có những bước đi tích cực. Khi ấy Việt
Nam đang coi người láng giềng phương Bắc này của mình là “kẻ thù truyền
kiếp”. Những thay đổi ở Trung Quốc vào thời điểm đó nếu có xuất hiện trên
các diễn đàn của Việt Nam thì cũng chủ yếu để đả kích và phê phán.
Trong hoàn cảnh ấy, Hiệp định Hợp Tác Toàn Diện giữa Việt Nam và Liên Xô
được ký kết. Theo đó, Liên Xô không chỉ mang đến cho Việt Nam một tỷ
rúp mỗi năm mà còn đem theo một đội ngũ chuyên gia hùng hậu.
Đội ngũ chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm các
cố vấn quản lý và các chuyên gia nghiên cứu. “Tổng Cố vấn” là ông
Paskar, nguyênchủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Nước Cộng hòa Xô viết
Moldavia. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, nếu như các cố vấn quản lý như
Paskar mang theo não trạng cũ, càng“cố vấn” càng làm cho bộ máy nhà nước
Việt Nam vận hành “quan liêu bao cấp” hơn, thì các chuyên gia lý luận
lại có công giúp đội ngũ cán bộ Việt Nam tìm được lối thoát về tư duy
một cách tích cực. Ngoài hàng ngàn cán bộ đã được đưa đi đào tạo từ dài
hạn, trung hạn đến ngắn hạn ở Liên Xô, từ tháng 3-1979, đoàn giảng viên
đầu tiên đã đến Việt Nam, mang theo “chính sách kinh tế mới của Lenin”, chính sách được biết đến với tên viết tắt là NEP (522).
Chính sách kinh tế mới được Lenin đưa ra chỉ một thời gian ngắn ngay
sau khi chính sách “cộng sản thời chiến” xóa hết tư hữu mà ông áp dụng ở
nước Nga thất bại. Theo ông Đào Xuân Sâm: Khi áp dụng NEP, Lenin không
nói rõ đây là một sách lược tạm thời hay lâu dài. Sau khi Staline lên
nắm quyền, NEP không chỉ bị kết liễu mà nó gần như không được nhắc tới
ngay cả trong nhà trường. Ở Liên Xô, chỉ những chuyên gia lý luận cao
cấp mới có quyền được nghiên cứu NEP.
Cuối thập niên 1980, sau những bế tắc của mô hình cũ, các nhà lý luận
Liên Xô bắt đầu đề cập đến Lenin thông qua chính sách kinh tế mới. Tới
Việt Nam, Viện trưởng Kinh tế học Liên Xô Abalkin, người về sau trở
thành phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã cho rằng sai lầm của mô
hình cũ là “phủ nhận thị trường, xây dựng kế hoạch một cách duy ý chí”.
Viện sỹ Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô Igor Tikhonov thì coi căn bệnh
hợp tác xã cao cấp ở Việt Nam cũng giống như bệnh ở các nông trang tập
thể Liên Xô. Một chuyên gia trẻ khác là Kulikov thì viện dẫn Lenin ủng
hộ việc sử dụng kinh tế cá thể, tư bản tư doanh và tư bản nước ngoài:
“hãy bắt giai cấp tư sản làm nốt sứ mệnh của nó”.
Bài giảng của các chuyên gia Liên Xô táo bạo và mới mẻ tới mức chính
Tổng Cố vấn Paskar cũng đã nhiều lần tỏ thái độ không đồng tình. Tuy
nhiên, Paskar không thể làm gì vì bản thân các vị viện sỹ hàn lâm này
cũng đều là những người thế lực. Igor Tikhonov là em ruột của Nicolas
Tikhonov, người lúc đó là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Theo Giáo
sư Đào Xuân Sâm thì Tikhonov đã nói với ông về các cố vấn quản lý như
Paskar: “Bọn này ở bên kia cũng làm khổ tụi tao nhiều lắm”.
Về phía Việt Nam, một số học viên “kiên định lập trường” đã báo cáo lên
trung ương. Giới lý luận trong nước cho rằng “Liên Xô sang giảng bài
chống lại lý luận của đảng ta”. Ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Phạm
Văn Đồng cho người đi nghe về báo lại nhưng cả ba ông đều không có ý
kiến gì. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm: “Lúc đó niềm tin với Liên Xô vừa
được khôi phục trở lại. Những lý luận đó lại được dẫn từ NEP của Lenin.
Nên cho dù trái với Marx, các nhà lý luận cấp tiến ở trung ương đã tự an
ủi rằng, đây là sách lược tạm thời, bước lùi tạm thời, khi khá lên lại
tập trung hóa, lại xóa tư hữu như Marx nói”.
Hơn 1000 cán bộ Việt Nam đã tham gia các lớp nghiên cứu về NEP trước
khi Trung ương bắt đầu có những sửa đổi ở Hội nghị Trung ương 6 vào giữa
năm 1979. Đặc biệt, các chuyên gia Liên Xô đã tổ chức năm lớp học cho
các cán bộ cấp bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh. Hội nghị
Trung ương 6 có cơ sở lý luận hơn để phân tích “những vấn đề kinh tế cấp
bách” để “cởi trói” dần cho sản xuất. Theo Giáo sư Trần Đình Bút, phân
hiệu trưởng của trường Quản lý Kinh tế Trung ương tại Thành phố Hồ Chí
Minh, các viện sỹ Liên Xô tham gia giảng dạy NEP ở Việt Nam đã tới tìm
hiểu giải pháp “bù giá vào lương” ở Long An và “khoán” ở xí nghiệp đánh
cá Côn Đảo – Vũng Tàu. Các vị viện sỹ đã rất đồng tình ủng hộ.
Khác với hai ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, chỉ tiếp cận với các lớp giảng
dạy về chính sách kinh tế mới của Lenin thông qua báo cáo, ông Trường
Chinh thường xuyên thảo luận với các chuyên gia của mình về những nội
dung của NEP. Đặc biệt, từ đầu năm 1983, Trường Chinh liên tục đi tới
các địa phương: ngày 10 đến 14-4- 1983, ông đi Đak Lak; ngày 15 đến
19-4-1983 ông tới Gia Lai- Kon Tum; ngày 18 đến 22-7-1983, ông làm việc ở
Lâm Đồng; ngày 21 đến 22-8-1983, ông đến khu công nghiệp Biên Hòa; ngày
23 đến 25-8-1983, ông xuống Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo; ngày 11 đến
15-8-1984, sau khi dự Quốc khánh Campuchia, ông về Thành phố Hồ Chí Minh
rồi đi khảo sát chính sách “bù giá vào lương” ở Long An (523). Chuyến đi
Long An có ấn tượng tốt. Theo ông Trần Nhâm: “Chưa bao giờ tôi thấy vẻ
mặt ông rạng rỡ và tinh thần ông phấn chấn đến như thế”. Trong năm 1985,
Trường Chinh tiếp tục nghiên cứu thực tế để củng cố tư duy đổi mới của
mình: ngày 16 đến 19-1-1985, ông trở lại Thành phố Hồ Chí Minh cùng
Nguyễn Văn Linh thăm một số nhà máy, xí nghiệp có cách làm ăn mới mẻ;
ngày 20 đến 23-1- 1985, ông trở lại Long An rồi từ đó đi An Giang, Đồng
Tháp; chuyến đi kéo dài ba tuần lễ này kết thúc ở Cần Thơ vào ngày
5-2-1985. Cho dù, tháng 8-1985, Trường Chinh còn đi Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh
và tới tháng 11-1985, ông xuống Hải Phòng, theo ông Trần Nhâm, thực tế
sinh động ở miền Nam đã “khắc họa tư duy đổi mới của Trường Chinh”.
Đến chọc thủng thành trì bao cấp
Kết quả nghiên cứu từ thực tiễn tới lý luận của Trường Chinh bắt đầu
được ông tung ra tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 3 đến 10-7-1984.
Bài phát biểu của ông đã để lại một khoảng cách khá lớn giữa Trường
Chinh và các đồng chí của mình. Khoảng cách đó càng bộc lộ rõ khi ý kiến
của ông được đặt bên cạnh bài phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Ông Lê Duẩn mở đầu Hội nghị Trung ương 6 bằng một bài phát biểu được
chuẩn bị công phu. Tình hình kinh tế lúc ấy đã lâm vào tình cảnh “tiến
thoái lưỡng nan”, nhưng bản báo cáo của tổng bí thư vẫn “kiên định”: ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng; đưa ngay nông nghiệp lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa; lấy kế hoạch làm trung tâm của hệ thống quản lý kinh
tế; làm chủ tập thể trong phân phối lưuthông,… Ông cho rằng, kế hoạch
“đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng bằng cách cân đối hiện vật” (524).
Ngay sau báo cáo chính trị của tổng bí thư, ông Trường Chinh trình bày
một bài phát biểu dài khoảng ba mươi trang, yêu cầu trung ương “nhìn
thẳng vào những sự thật trong đời sống kinh tế”. Trường Chinh nói: “Chế
độ bao cấp trong những năm qua làm cho bức tranh kinh tế của chúng ta
trở thành giả tạo”. Ông cho rằng: “Trên quan liêu nên dưới phá rào… tình
trạng báo cáo sai sự thật đang lan tràn ở mọi ngành mọi cấp”. Trước hai
hiện tượng tiêu cực, “quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ” và “tự do
chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật”, theo ông Trường Chinh, tình
trạng“quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ” nguy hiểm hơn.
Ngay tại Hội nghị Trung ương này, ông Trường Chinh đã yêu cầu Đảng, dù
muốn hay không “cũng phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị
trường, đó là giá thực tế mà cả xã hội dang phải sống hàng ngày với nó”.
Trường Chinh kêu gọi “khôi phục tính chân thật của các hoạt động kinh
tế”. Theo ông, bao cấp không những làm cho nhà nước “sa vào công việc sự
vụ hàng ngày, làm thay công việc của các doanh nghiệp và các đơn vị
kinh tế, can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bận bịu,
tất bật đến nỗi không còn thời gian để suy nghĩ đến việc mình phải cầm
lái như thế nào”, mà còn dẫn tới “một hệ thống giá cứng nhắc và quá
thấp, gây thiệt hại lớn đến lợi ích quốc gia và người lao động” (525).
Có không ít ủy viên trung ương ngạc nhiên khi “papa” Trường Chinh đưa
ví dụ có nơi “lương giáo viên được trả bằng phân bón”. Ông nói trước hội
nghị: “Giáo viên mang phân được trả với giá 7 đồng/kg bán ra thị trường
với giá 50 đồng/kg để lấy tiền chi cho sinh hoạt”. Theo ông: “Tiền
lương của người lao động hiện nay chỉ đủ sống trong mười ngày và đang có
xu hướng giảm hơn nữa, kể cả khi được cung cấp các mặt hàng định lượng.
Vậy còn hai mươi ngày nữa phải sống sao đây!”.
Khi nghe Trường Chinh nhấn mạnh: “Giải quyết tiền lương lúc này, chính
là giải quyết sản xuất, đồng thời cứu lấy giai cấp công nhân”, những
người có mặt ở Hội nghị Trung ương 6 đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt.
Trước đó, khi ông Trường Chinh nhắc đến cụm từ “tự động xé rào”, cả hội
trường cười ầm lên. Bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 6 của Trường
Chinh làm cho nhiều ủy viên trung ương “sửng sốt”. Ông Phạm Văn Đồng
thừa nhận: “Anh Thận nói làm tôi rợn người”. Ngay sau hội nghị, các
ngành, các địa phương đã phổ biến, truyền tụng những quan điểm chính yếu
trong bài phát biểu này.
Theo ông Hà Nghiệp, quan điểm của ông Trường Chinh tại Hội nghị Trung
ương 6 rất khác với bản báo cáo của ông Lê Duẩn, nhưng đấy không phải là
một cuộc đụng độ. Cho dù uy tín của Trường Chinh là rất lớn trong dân,
trong Đảng, nhưngtrước khi đưa ra Trung ương, ông vẫn thường trực tiếp
cầm bài phát biểu của mình sang trao đổi với ông Lê Duẩn (526). Vào thời
điểm ấy, sức khỏe của ông Lê Duẩn đã bắt đầu giảm sút. Có lẽ điều ông
quan tâm lớn nhất là hệ thống hóa tư duy lý luận của mình, nên thay vì
nắm bắt những gì đang diễn ra, bản báo cáo dài hơn bảy mươi trang của
ông chủ yếu xoay quanh “mười quy luật kinh tế rường cột” đậm chất kế
hoạch hóa xã hội chủ nghĩa mà mà ông đã nghiên cứu từ thời viết Dưới
Ngọn Cờ Vẻ Vang Của Đảng (527).
Giá-Lương-Tiền
Sau Hội nghị Trung ương 6, nhiều địa phương bắt đầu áp dụng thử chính
sách “bù giá vào lương và tính đủ giá thành vào sản phẩm”. Kết quả trên
thực tế diễn ratích cực không ngờ. Năm tháng sau đó, tại Hội nghị Trung
ương 7, họp từ ngày 10 đến 17-12-1984, Trường Chinh kêu gọi: “Dứt khoát
bãi bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Phải mổ xẻ và loại bỏ cái ung nhọt này
càng sớm càng hay. Không một chút gì đáng để chúng ta luyến tiếc”. Hội
nghị Trung ương 7 đã nhất trí với đề nghị của ông Trường Chinh, cho
thành lập Tiểu Ban Nghiên cứu Giá-Lương-Tiền, chuẩn bị đề án trình Hội
nghị Trung ương 8.
Hội nghị Trung ương 8, tháng 6-1985, đã coi việc giải quyết
giá-lương-tiền là “khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền
kinh tế sang hạch toán kinhdoanh xã hội chủ nghĩa”. Hai tháng sau khi có
nghị quyết, số lượng các địa phương làm thử bù giá vào lương lên đến
hai mươi tám tỉnh, thành; mười hai tỉnh, thành khác cũng tích cực chuẩn
bị. Người đứng đầu “Bộ Tham mưu” cải cách Giá-Lương- Tiền là Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, một chuyên gia hàng đầu của bộ máy
kế hoạch hóa tập trung; giúp việc ông là sáu bộ trưởng và tổng giám đốc
Ngân hàng Nhà nước. Ông Hà Nghiệp gọi ông Trần Phương là người “cấp tiến
nhất trong phe bảo thủ”. Còn ông Trần Phương thì thừa nhận: “Khi đó bọn
mình nghĩ về giá còn ngây thơ lắm”.
Sở dĩ các địa phương như Long An, Hải Phòng,… thí điểm bù giá vào lương
thành công là nhờ mức bù giá căn cứ trên giá bán được “những hiện vật
tính thành lương” như xà bông, vải, gạo, thịt,… Trong khi, để thực hiện
Nghị quyết 8, ngày 10-8-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 28: phê chuẩn
mức giá mua thóc từ 15-18 đồng/kg, ở vùng thuận lợi từ 26-28 đồng/kg ở
vùng khó khăn; phê chuẩn mứclương tối thiểu cho cán bộ công nhân viên
2.200 đồng/tháng… Mức giá mua thóc lên đến từ 26-28 đồng/kg là dựa trên ý
kiến của chính ông Trương Chinh trong khi mức giá được đề nghị là 10
đồng/kg. Ông Trường Chinh đã đúng khi cho rằng nếu mua thóc với giá mười
đồng thì vẫn theo tư duy bao cấp. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, từ
chuẩn giá thóc như vậy, các loại vật tư hàng hóa khác cũng phải điều
chỉnh tăng lên khoảng mười lần.
Theo ông Trần Phương: “Đầu thập niên 1980, Việt Nam có một triệu rưỡi
quân, hai triệu cán bộ công nhân viên chức và mười triệu dân thành phố.
Để cung cấp lương thực, thực phẩm cho lực lượng này, Bộ Nội thương đã
phải ép nông dân để mua thóc và lợn với giá chỉ bằng một nửa giá mà người
dân trao đổi với nhau ngoài chợ. Với tư cách một nhà nghiên cứu, tôi
chống lại điều phi lý đó. Ngay từ năm 1981, khi làm bộ trưởng Bộ Nội
thương, tôi đã yêu cầu phải sửa giá chuyển sang giá thỏa thuận, sửa giá
toàn bộ và sửa lương. Đề án của tôi trình ra như một quả bom, các bộ ai
cũng run. Lê Duẩn kết luận: phải theo kế hoạch nhưng giá phải theo thị
trường”.
Đề án “Giá-Lương-Tiền” năm 1985 của Trần Phương “dè dặt hơn” Đề án 1981
vì theo ông: “Quỹ hàng hóa năm 1985 eo hẹp hơn”. Thời gian này, ông Lê
Duẩn ốm, vài tháng phải sang Liên Xô điều trị một lần. Theo thường lệ,
“nhân vật số hai” Trường Chinh thay thế chủ trì các hội nghị Bộ Chính
trị. Trường Chinh kết luận: Làm ngay một bước, không làm từng bước, theo
đề án của mình. Nhưng, khi ra Hội đồng Chính phủ, bộ trưởng Bộ Cơ khí
tuyên bố nếu giá bán vật tư như vậy thì các xínghiệp cơ khí sẽ phải đóng
cửa, các bộ trưởng khác cũng nói, nếu làm ngay một giá hàng công nghiệp
không bán được. Ông Phạm Văn Đồng kết luận: “Vật tư công nghiệp lấy
bằng 70% giá thị trường”. Thực tế cho thấy nhà nước nắm hai khối hàng và
trong khi hàng công nghiệp bán ra chỉ bằng 70% giá thị trường, phải mua
lại nông sản với giá bằng 100% thị trường. Chưa làm đã thấy quỹ hàng
hóa công nghiệp bán sẽ không đủ bù mua quỹ hàng nông nghiệp.
Mất cân đối về lý thuyết lại xuất hiện thêm khi ông Võ Chí Công chủ trì
một hội nghị của Ban Bí thư với các địa phương. Đề án bỏ lương hiện vật
bằng tiền lương, nhưng theo tính toán thì chỉ có thể tăng lương lên
20%. Các tỉnh nói mức lương đó chỉ đủ ăn một tuần, các tỉnh miền Nam đề
nghị tăng lương lên bằng 100%. Trần Phương phản đối thì Võ Chí Công nói:
“Tôi thật không hiểu anh Phương. Mức lương này sao sống được?”. Trần
Phương: “Thưa anh, tôi hiểu mức lương này sống rất khốn nạn, nhưng nhà
nước đang không có tiền”. Cho dù ngân sách không có, Võ Chí Công vẫn kết
luận: “Chấp nhận đề án do các tỉnh miền Nam đề nghị, tăng lương tối
thiểu lên 100%”. Chính hai quyết định trên đây đã dẫn tới lạm phát.
Theo mức giá mới, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nền kinh tế cần phải có
một lượng tiền mặt lên tới 120 tỷ đồng để lưu thông. Nhưng lượng tiền
phát hành trênthực tế chỉ mới có khoảng sáu mươi tỷ đồng, lấy đâu ra
thêm sáu mươi tỷ đồng tiền giấy? Theo ông Trần Phương, tháng 8-1985,
nhân có mười hai tỷ đồng tiền mới được in từ Đông Đức đưa về, Hội đồng
Bộ trưởng tính toán nếu in thêm cho đủ lượng tiền cần thiết thì không
thể kịp và tốn kém nên quyết định nâng mệnh giá đồng tiền mới này lên
mười lần rồi đổi tiền để biến mười hai tỷ đồng thành 120 tỷ đồng, thỏa
mãn nhu cầu lưu thông theo “Giá-Lương-Tiền” mới.
Ông Trường Chinh không đồng tình với cách làm này. Ngày 29-8-1985, ông
gửi thư tới Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn
Đồng và các phó của ông Đồng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Tố Hữu. Thư Trường
Chinh viết: “Riêng về tiền, sắp tới có mười hai tỷ đồng tiền mới, tương
đương với 120 tỷ đồng hiện nay. So với lương mới và giá mới sắp tới thì
số tiền đó là chưa đủ, tiền sẽ tiếp tục căng thẳng. Nên chăng đề nghị
các anh tính lại, không đổi tiền mà cho lưu hành song song hai đồng tiền
với tỷ lệ một đồng mới ăn mười đồng cũ. Như vậy, có thêm hơn sáu mươi
tỷ đồng hiện nay cứ cho tiếp tục lưu hành, lặng lẽ thu hồi và hủy dần
khi có tiền mới về tiếp, tránh được căng thẳng về tiền mặt, bảo đảm yêu
cầu của sản xuất, thu mua, kinh doanh đang chuyển theo cơ chế mới, không
gây xáo trộn về tâm lý” (528). Thư gửi đi chưa được trả lời, ngày
1-9-1985, khi họp Bộ Chính trị, Trường Chinh lại nhắc lại đề nghị trên.
Phạm Văn Đồng giải thích: “Ý kiến Anh Năm cũng hợp lý, nhưng mọi việc đã
chuẩn bị hết cả rồi. Chúng ta đang cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống
được nữa”. Theo Trần Nhâm: “Ông chấp hành quyết định của Bộ Chính trị và
sáng ngày 3-9-1985, nhân danh là chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Trường
Chinh đặt bút ký sắc lệnh đổi tiền mà trong lòng rất áy náy”.
Tuần lễ sau đó, tiền mặt được vận chuyển vào Nam qua sân bay Tân Sơn
Nhất; các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh không bán các mặt hàng cao
cấp; các ngân hàng không nhận tiền nộp vào. Ngày 11-9-1985, phần lớn
nhân viên ngân hàng bị giữ lại trụ sở. Tin tức đổi tiền bắt đầu lọt ra.
Trong khi đó, ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ vẫn chạy tít lớn trên trang
nhất: “Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương”. Bài báo đanh
thép tuyên bố: “Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô
sản mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để”.
Để rồi, sáng 14-9-1985, hệ thống loa truyền thanh giăng mắc khắp các
góc phố bắt đầu thông báo lệnh đổi tiền. Chính báo Tuổi Trẻ, trong số kế
tiếp, ra ngày 14-9- 1985, cũng đăng quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Phạm văn Đồng về việc “phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi
tiền cũ”. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải
lên báo giải thích: “Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động”.
“Quyết định đổi tiền không phải là hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người
dân. Ấy thế mà lúc sáu giờ sáng thứ bảy, ngày 14-9, khi nghe loa truyền
thanh trên đường phố tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam bắt đầu thông báo
chương trình phát thanh đặc biệt kéo dài đến 7 giờ 15 thì những người ra
đường sớm đều dừng lại, đứng chụm nhum thành từng nhóm để nghe cho hết
từng quyết định, thông báo. Và từ đó, tinđổi tiền thành đề tài số một ở
tất cả mọi nơi, của tất cả mọi người” (529).
Không sững sờ sao được khi cả thành phố gần bốn triệu dân, chính quyền
chỉ thiết lập 900 bàn đổi tiền và chỉ cho “nhân dân lao động” có một
khoảng thời gianrất ngắn, trong vòng từ sáu đến mười hai giờ trưa ngày
14-9, để kê khai; người dân chỉ được kê khai một lần và chỉ được đổi
ngay một phần. Theo quyết định do Phạm Văn Đồng ký ngày 13-9-1985: mỗi
hộ gia đình được đổi ngay tối đa 2.000 đồng tiền mới; mỗi hộ độc thân và
mỗi người trong hộ tập thể (bộ đội, công an, cơ quan nhà nươc) được đổi
ngay tối đa 1.500 đồng; mỗi hộ kinh doanh có môn bài bậc cao được đổi
ngay tối đa 5.000 đồng tiền mới. Đối với số vượt mức đổi ngay thì nộp
cho bàn đổi tiền, lấy biên nhận, Ban Chỉ đạo Thu Đổi Tiền cấp tỉnh,
thành phố, quận huyện sẽ xem xét và giải quyết sau. Đặc biệt: “Số tiền mặt do đầu cơ,
buôn lậu, nhận tiền phân tán và do nguồn thu nhập bất chính khác đều bị
tịch thu, nhập vào tài khoản của ngân sách”.
Hàng nghìn câu chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra do cách mà nhà nước đối
xử với tiền bạc của người dân theo kiểu đánh úp này. Do có hộ chỉ có
bốn mươi đồng tiền cũ để đổi nên “dịch vụ” đổi tiền giúp đã phát sinh
giữa những người không có lượng tiền mặt vượt quá mức 2.000 đồng tiền
mới với các gia đình giàu có. Bằng kinh nghiệm lần đổi tiền thứ nhất
trong “Chiến dịch X3”, biết trước tương lai mất giá của những đồng tiền
“vượt mức đổi ngay” nộp cho ngân hàng rồi chờ “xem xét giải quyết sau”,
nhiều người đã tung tiền ra mua hàng.
Theo Sài Gòn Giải Phóng, ngay trong sáng 14-9-1985, ở chợ An Lạc, giá
một con vịt lên tới 3.000 đồng tiền cũ; một ký thịt heo lên tới 2.000
đồng, trong khi một ký thịt heo nạc bán trước ngày đổi tiền chỉ là 325
đồng tiền cũ. Trước chín giờ sáng ngày 14-9-1985, các đội kiểm soát đã
bắt “một gian thương” mua gom chín tấn gạo. Cũng trong buổi sáng, Quản
lý Thị trường đã “phát hiện” tại Quận 10 “một hộ đầu cơ phụ tùng xe đạp;
một hộ chứa vải bất hợp pháp; một hộ buôn vàng và đá quý, tịch thu một
khối lượng tiền mặt lên tới 380.000 đồng tiền cũ”.
Bi kịch cũng không tha các cơ quan nhà nước. Ngân hàng biết trước
chuyện đổi tiền từ trước đó, không những đã không chịu thu tiền về mà
còn tìm cách dí tiền mặt xuống cho các cơ quan, đơn vị. Ông Trần văn
Thêm, giám đốc Dệt Bình Minh kể: “Sáng 13-9-1985, ngân hàng ấn cho chúng
tôi gần một triệu đồng, bây giờ chúng tôi phải vất vả giải trình” (530).
Ngay trong ngày 15-9, nhiều xí nghiệp đã phải ngưng hoạt động vì tiền cũ
nộp, đi tiền mới chưa được cầm, không có tiền lo bữa ăn giữa ca cho công
nhân. Dệt Bình Minh có 900 công nhân, chỉ nhận được 5.000đồng. May Hòa
Bình nhận được 2.500 đồng. Tình cảnh của nhiều cá nhân, đặc biệt là với
những người đang bị xếp vào diện “khách vãng lai”, thì lại còn bi kịch
hơn gấp bội.
Vài ngày sau đổi tiền, ông Võ Văn Kiệt gửi thư báo cáo Phạm Văn Đồng và
ông Trường Chinh: “Kết quả của việc đổi tiền cho thấy tiền nằm trong
nhân dân tương đối ít, số hộ có số tiền đổi thấp là khá đông, cho chúng
ta một kết luận đáng suy nghĩ và day dứt về mức sống của nhân dân lao
động hiện nay. Một kết quả khác cho thấy tiền nằm trong tay tư sản không
đáng kể, chúng ta đã ‘đánh hụt’ vì để cho bọn chúng quá nhiều thì giờ
để chuẩn bị đối phó, thẳng tay thu gom, vơ vét hàng của nhà nước và
chuyển tài sản từ tiền ra những giá trị khác” (531).
Cũng theo ông Võ Văn Kiệt: “Chúng ta có nhiều sơ hở trong vụ đổi tiền,
gây nên những hậu quả bất lợi đáng quan tâm. Sự thiếu bảo mật đã làm cho
hàng của nhà nước tuồn hết về người có tiền, tiền của các hộ buôn bán
lớn chuyển hết cho các xí nghiệp, công ty nhà nước, và thương nghiệp bị
rút hết hàng nhanh chóng, suy yếu khả năng chống đỡ trên thị trường.
Chúng ta không thực sự chuẩn bị cho một vụ đổi tiền, một đồng mới ăn
mười đồng tiền cũ, không chuẩn bị một cơ cấu giấy bạc của tiền mới thích
nghi với nhu cầu thanh toán nhỏ. Giả dụ rằng chúng ta chỉ phát hành đến
mức năm mươi đồng tiền mới và nhiều đơn vị tiền lẻ, tình hình có lẽ đỡ
xấu hơn”.
Sau khi tiền mới được tung ra, giá cả tăng còn nhanh hơn ngựa chạy.
Ngay trong ngày 15-9-1985, Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phải tổ
chức hội thảo và sau đó cho lập các “đội thanh niên kiểm tra giá”. Ủy
ban Nhân dân Thành phố tuyên bố “Rút giấy phép kinh doanh những ai bán
phá giá”. Nhưng giá cả đã tỏ ra không hề sợ hãi chính quyền. Nhiều người
dân khi nhận được đồng tiền mới, sức mua đã giảm hàng chục lần khi họ
giao tiền cũ cho nhà nước. Tình hình xấu đi trông thấy: ngân hàng thiếu
tiền, thương nghiệp thiếu hàng, công nghiệp thiếu vật tư, công nhân đói
vì cầm đồng tiền mất giá, nông dân khóc vì phải bán nông sản với giá
thấp hơn chi phí bỏ ra. Sản xuất giảm. Đầu tư nhà nước giảm. Chỉ số giá
bán lẻ trên thị trường tự do năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985.
Lạm phát chưa phải là thảm họa duy nhất của nền kinh tế. Như ông Kiệt
phân tích, mệnh giá thấp nhất của đồng tiền mới tự dưng bị nâng lên gấp
mười, mộtđồng tiền mới có sức mua theo lý thuyết bằng mười đồng tiền cũ.
Cho dù loại giấy bạc từ mười đồng tiền cũ trở xuống vẫn còn được lưu
thông, nhưng nếu dùng một đồng tiền mới để mua một que kem thì phải nhận
thối về một ôm tiền lẻ. Sự bất mãn tăng nhanh trong xã hội.
Tháng 12-1985, Quốc hội khóa VII triệu tập kỳ họp thứ 10. Trước khi ra
Hà Nội, đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cửu Long quyết định phải “nã pháo”
vào Giá-Lương- Tiền. Người nhận lãnh trách nhiệm này, bà Đào Thị Biểu,
với biệt danh là bà Sáu Trầu, kể lại: “Trước khi đi họp, anh Trịnh Văn
Lâu, trưởng đoàn hỏi: ai dám phát biểu? Nhiều người xung phong. Nhưng
anh nói, vấn đề gay gắt lắm, phải có giọng nữ nhẹ nhàng, nói năng từ
tốn, thành tích kháng chiến tốt, phải dũng cảm, có thể ‘hy sinh’. Tôi
nghĩ mình phát biểu là đem ý dân gửi cho Đảng, để dân mất lòng tin vào
Đảng là mình có tội. Thế là tôi nhận”.
Bài phát biểu đã được chuẩn bị sẵn từ ở nhà và đã nộp cho chủ tịch đoàn
Quốc hội đăng ký tham luận theo nguyên tắc của thời kỳ đó. Nhưng, theo
bà Sáu Trầu,Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, khi đọc “Báo cáo
Tình hình Kinh tế Xã hội” trước Quốc hội, đã “đổ thêm dầu vào lửa” bằng
cách phê bình các địa phương “không biết phát huy thế mạnh đổi tiền”.
Lúc đó, theo bà Sáu Trầu: “Giá tăng cao gấp mười lần. Lương người sản
xuất thấp lẹt đẹt, còn lương kinh doanh cao ngút trời. Tiền thì không có
tiền lẻ; mua thuốc, ăn hủ tiếu… phải thế lại giấy chứngminh. Giá vé xe
đò tăng cao gấp năm đến bảy lần, nhiều người về xa không đủ tiền phải
nằm lại bến. Cuộc sống xã hội đầy khó khăn như phơi bày ra đó, cử tri
cực kỳ bức xúc. Phải chăng đó là ưu thế!”.
Bà Sáu và đoàn đại biểu Quốc hội Cửu Long quyết định viết lại bài phát
biểu, nói thẳng vào vấn đề hơn. Trước khi lên diễn đàn, bà Sáu Trầu dặn
các đồng chí của mình: “Gia đình tôi năm người tham gia cách mạng, hy
sinh hết bốn rồi, giờ dẫu có ‘hy sinh’ thêm nữa thì cũng chẳng sao. Nếu
tôi có bị sao thì nhớ chăm sóc con tôi và giáo dục nó sống tốt, xứng
đáng như mẹ nó”.
Ngày cuối cùng của kỳ họp, trước giờ bế mạc, bà Sáu – với hình ảnh được
gần 500 đại biểu ghi nhớ: “một phụ nữ miền Nam phúc hậu, ăn trầu bỏm
bẻm” – bước lên diễn đàn, chất vấn thẳng vào vấn đề: “Chúng tôi cho rằng
mười năm qua chưa lần nào dân xôn xao, bất bình, thậm chí phẫn nộ bằng
đợt phá giá-lương-tiền vừa qua. Chúng tôi đã chứng kiến biết bao cảnh
các cửa hàng ách tắc, bao nhiêu cuộc cãi vã xô xát, bao nhiêu tiêu cực:
vo tròn giá hay nâng giá vì thiếu tiền lẻ và mua bán tiền lẻ… Trung ương
nói địa phương không biết phát huy ưu thế sau đổi tiền, nhưng ưu thế gì
mà phát huy? Giá cả tăng năm, bảy lần so với trước, có thứ gấp mười,
mười lăm lần, đội rất xa giá thị trường. Chúng tôi chứng kiến cảnh bắt
và tịch thu hàng của người tự sản, tự tiêu vì bán giá thấp hơn giá nhà
nước quy định, đạo lý gì phải làm như vậy? Đồng chí Đỗ Mười nói rằng tỷ
giá công nông hiện nay đã rất hợp lý, thậm chí nông dân còn có lợi nhiều
hơn trước. Chúng tôi chưa nhất trí với nhận định đó”. Bà Sáu Trầu nói
tới đâu “cả hội trường vỗ tay rần rần” đến đó. Hôm ấy, khi bà Sáu về
phòng, nhiều đoàn đại biểu Quốc hội gõ cửa và tặng bà rất nhiều… trầu
cau. Bà Sáu Đào Thị Biểu nói: “Họ đồng cảm vì khó khăn ở đâu cũng vậy
nhưng chưa dám nói”.
Sau kỳ họp này, ông Trần Phương nhớ lại: Tôi quyết định phải từ chức
nhưng khi chia sẻ điều này với Đồng Sỹ Nguyên, Bộ trưởng Bộ Giao thông
Đồng Sỹ Nguyên nói: “Nếu từ chức, phải từ chức cả Hội đồng Bộ trưởng”.
Tôi bảo: “Đằng nào cũng phải có người chịu trách nhiệm. Nếu mình tôi
chịu trách nhiệm được với dân thì không nhất thiết phải kéo thêm nhiều
người”. Trần Phương bị kỷ luật, nhưng ngay từ lúc đó, dân gian đã nói:
“Đổi tiền là chuyện Triều đình / Cớ sao chịu tội một mình Trần Phương”.
Sự nghiệp chính trị của ông Trường Chinh có những tình huống thật éo
le. Phản đối đổi tiền, nhưng khi không thuyết phục được Bộ Chính trị,
sáng 3-9-1985, ông vẫn nhân danh chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký sắc lệnh
đổi tiền. Là một trong những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Trường
Chinh đồng thời cũng phải phục tùng cái tập thể mà ông lãnh đạo đó. Là
người đưa ra “thuyết ba giai đoạn” trong Đại hội II, năm 1951, theo đó
trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất,
nhưng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận sức ép của Mao Trạch Đông và
Stalin, vội vàng cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn nhận trách nhiệm
chủ tịch Ủy ban Cải cách Ruộng đất. Để rồi khi Hồ Chí Minh “sửa sai”,
ông lại một mình mất chức.
Ông Trần Nhâm viết: “Sau khi Trường Chinh ký Sắc lệnh Đổi tiền, khắp
nơi gửi thư đến phàn nàn, nhiều cán bộ cách mạng lão thành gặp ông trách
cứ: sao quan điểm của anh đổi mới thế mà việc làm của anh lại khác như
vậy? Ông cười xòa nói: đó là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải
của một cá nhân nào. Ông thà chịu đựng trước búa rìu của sự phê phán đối
với cá nhân ông, chứ không bao giờ vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hồi Cải cách ruộng đất cũng vậy, ông tự phê bình nghiêm khắc, tự
nguyện rút khỏi cương vị tổng bí thư. Ông thường tâm sự với chúng tôi:
làm cách mạng không phải lúc nào cũng suôn sẻ, có việc muốn làm thì
không làm được, có việc không nên thì lại cứ làm, người ta ai nói gì thì
tùy họ, miễn là không thẹn với lòng. Việc đổi tiền ông đã làm hết sức
mình để ngăn không cho nó xảy ra, nhưng cuối cùng nó vẫn xảy ra” (532).
Sau “Giá-Lương-Tiền”, có ý kiến cho rằng thất bại của tổng điều chỉnh
Giá-Lương-Tiền có nguyên nhân từ Nghị quyết Trung ương 8. Tại Hội nghị
Trung ương 9, họp từ ngày 9 đến 16-12-1985, Trường Chinh cho rằng Nghị
quyết Trung ương 8 là “nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất và có hiệu
quả cao nhất. Song, điều đáng tiếc là trong chỉ đạo thực hiện, chúng ta
đã phạm một loạt sai lầm, khuyết điểm… Chúng ta đã nặng về điều chỉnh
mặt bằng giá và lương mà coi nhẹ đổi mới cơ chế quản lý… Nghị quyết
Trung ương Tám chưa được triển khai thực hiện tốt, cơ chế quản lý mới
chưa kịp hình thành thì đùng một cái chúng ta đã tiến hành đổi tiền
trong thế bị động. Lẽ ra có thể giải quyết việc thiếu tiền theo cách
khác” (533).
Quan điểm của Trường Chinh tiếp tục có thêm thành viên trong Bộ Chính
trị đồng tình ủng hộ. Ngày 19-2-1986, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch phát biểu trong một phiên họp của Bộ Chính trị (534): “Sức mạnh của
chủ nghĩa xã hội và sức mạnh của nền chuyên chính vô sản cũng không thể
đi ngược lại với những quy luật kinh tế…”. Ông Thạch cho rằng: “Một
chính sách của nhà nước vừa ban hành là người dân cần phải tính toán
ngay để quyết định sản xuất cái gì, mua cái gì. Nhưng bộ máy tính giá
của Ủy ban Vật giá phải mất một năm mới tính toán xong. Hệ thống giá cả
đó gửi đi mỗi tỉnh tốn mỗi năm bốn mươi tấn giấy”. Ông Thạch nêu ví dụ
điển hình về tính phi lý của giá: “Giá báo Nhân Dân rẻ quá đưa đến tình
trạng con buôn mua gom báo để làm giấy gói hàng còn người cần đọc báo
thì không còn báo”.
Trước thềm Hội nghị Trung ương 10, Trần Phương gửi tới các ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương một bản giải trình dài chín mươi hai trang, tiếp
tục bảo vệ quan điểm “quy tội” cho Nghị quyết 8. Nhóm chuyên gia của
Trường Chinh, trực tiếp là Trần Đức Nguyên, lập tức làm việc suốt ngày
đêm chuẩn bị cho Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Lam một bài phát
biểu ba mươi trang, lần lượt phản bác lại “giải trình chín mươi hai
trang” của Trần Phương. Tháng 6-1986, Hội nghị Trung ương 10 kết luận
chính thức: “Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và các Nghị quyết
28, 31 của Bộ Chính trị về Giá-Lương-Tiền là đúng đắn”.
Nã pháo vào bộ tổng
Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 cho thấy khuynh hướng đổi mới mà
Trường Chinh khởi xướng đang thắng thế, cho dù từ đầu năm 1986, Trường
Chinh bắt đầu gặp phản công. Có lẽ do uy tín của Trường Chinh trong Đảng
quá lớn, và do ông đã rất chặt chẽ khi bắt đầu tiến trình đưa ra các
quan điểm của mình, nên không ai dám có phản ứng đích danh.
Nhưng đầu năm 1986, khi Giáo sư Đào Xuân Sâm, một chuyên gia trong nhóm
Trường Chinh, công khai đưa ra khái niệm “thị trường có tổ chức”, nó đã
bị coi như là một “quả bom” vì động đến nơi linh thiêng nhất của nền
kinh tế kế hoạch hóa.
Sau khi cho rằng không thể “lẩn trốn thị trường” nếu muốn thoát ra khỏi
“quan liêu bao cấp”, Đào Xuân Sâm đã dẫn câu nói của Lenin: “Đi với chó
sói thì phải gào lên”.
Tháng 3-1986, Ban bí thư tổ chức hội thảo, giáo sư Đào Xuân Sâm được
mời và ông có bài phát biểu: “Kinh doanh xã hội chủ nghĩa và quyền tự
chủ của người kinh doanh”. Một số nhân vật trong Ban Bí thư khen phát
biểu ấy nên báo Nhân Dân lấy đăng ở mục Diễn đàn liên tiếp ba số báo từ
ngày 17 đến 19-3-1986. Nhưng theo giáo sư Đào Xuân Sâm: “Đúng lúc ấy Bộ
Chính trị họp, Đỗ Mười, Tố Hữu phê phán rất căng. Đỗ Mười nói: thằng này
nã trọng pháo vào bộ Tổng”.
Ngày 20-3-1986, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước Phan Văn Tiệm nhận
xét trong một cuộc giao ban của ủy ban: “Những biện luận của vị giáo sư
trên báo Nhân Dân mấy ngày qua chỉ là một suy nghĩ ngông cuồng”. Báo
Nhân Dân sau đó cũng liên tiếp viết bài phê phán quan điểm của Đào Xuân
Sâm, cùng lúc, các tạp chí như Nghiên cứu Kinh tế, Thông tin Lý luận
đăng nhiều bài lên án. Các “nhà lý luận kiên định” coi Đào Xuân Sâm như
là một “Otar Sik (535) của Việt Nam”. Cho dù ông không có được một hệ thống
lý thuyết hoàn chỉnh về “tự do hóa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo cơ
chế thị trường” như Otar Sik, giới nghiên cứu chính thống và Học viện
Nguyễn Ái Quốc vẫn muốn xếp ông vào diện “xét lại”.
Bài viết của Đào Xuân Sâm còn bị các chuyên gia Liên Xô phê phán, nhất
là sau khi Trưởng đoàn Paskar có buổi làm việc trực tiếp với Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộtrưởng Đỗ Mười. Ngày 8-5-1986, sau hơn một tháng trở lại
Việt Nam, đoàn Chuyên gia Kinh tế Cao cấp Liên Xô đã gặp Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, các Phó Chủ tịch: Võ Chí Công, Tố Hữu, Đỗ
Mười, Võ Văn Kiệt. Phía Liên Xô, ngoài Đại sứ Sepplin, Cố vấn trưởng
Paskar, còn có ba tiến sỹ, trong đó có viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh
tế toàn Liên Bang, ba phó tiến sỹ khoa học kinh tế và những chuyên gia
có kinh nghiệm khác.
Sau khi ghi nhận những “chuyển biến quan trọng”, Paskarđã chỉ ra nhiều
“thiếu sót nghiêm trọng” trong phát triển kinh tế536. Về công nghiệp,
Paskar cho rằng: “một số ngành sản xuất đang đi chệch những chỉ tiêu kế
hoạch; nhiều nhà máyđược xây dựng chỉ sử dụng 50% công suất”. Về tình
trạng cung cấp vật tư, Paskar phê phán những thành quả “xé rào”. Paskar
cho rằng “khó khăn của xí nghiệp, nhà máy là ở chỗ, các xí nghiệp có
quyền mua bán vật tư theo giá thỏa thuận”. Sau khi cảnh báo hiện tượng
“chưa tập trung đúng mức quyền lực vào trung ương”, ông nói: “Chúng tôi
theo dõi cuộc tranh luận trên báo chí ở Việt Nam; hình như có những
người phê phán trung ương tập trung quan liêu làm cho địa phương không
hoạt động được”.
Sau khi nhấn mạnh “quyền lực của nhà nước trung ương”, cố vấn Paskar
nói: “Chúng tôi cảm thấy Việt Nam hiện đang có hai trào lưu: trào lưu
phi tập trung hóa, giao thêm quyền lực cho địa phương và giao lưu thông
phân phối cho thị trường tự do; trào lưu thứ hai là tập trung quyền lực
và kế hoạch”. Dừng lại một chút, Paskar tuyên bố: “Chúng tôi gia nhập
trào lưu thứ hai này!”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng phụ
họa: “Không thể khác được đồng chí Paskar ạ!”. Võ Chí Công bổ sung:
“Trào lưu thứ nhất chỉ có một ít thôi. Bài báo của Đào Xuân Sâm là sai.
Chúng tôi đã cấm và kiểm điểm tòa soạn”. Paskar phấn khởi: “Chúng tôi
muốn nói tới bài báo đó. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu giao lưu
thông phân phối cho tư thương. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu sản
xuất không có kế hoạch. Từ bỏ kế hoạch thì chủ nghĩa xã hội chỉ còn khẩu
hiệu, không ai thừa nhận đó là chủ nghĩa xã hội”. Paskar kết thúc cuộc
họp: “Bây giờ phải tăng cường kỷ luật lập lại trật tự”. Khi ấy, Liên Xô
đang cấp cho Việt Nam mỗi năm một tỷ rúp.
Khép lại trang sử Lê Duẩn
Cho dù ở trường Nguyễn Ái Quốc, quy trình phong hàm giáo sư cho ông Sâm
bị trì hoãn sau nhận xét của Đỗ Mười và Cố vấn Paskar, Đào Xuân Sâm
tiếp tục được mời tới các cuộc thảo luận trong nhóm nghiên cứu của
Trường Chinh. Tình hình đất nước vào thời điểm ấy đã vô cùng nguy ngập.
Trường Chinh biết rõ Đảng đang ở trong tình thế “đổi mới hay là chết”.
Trong cuộc đời của làm cách mạng của mình, đây chính là cơ hội để Trường
Chinh khắc phục những sai lầm không chỉ là của Đảng mà cả của chính cá
nhân ông nữa.
Theo ông Trần Nhâm: “Sáng 29-9-1988, một ngày trước khi ông Trường
Chinh mất, khi làm việc với ông, tôi có hỏi, tại sao khi đó bác lại làm
lớn chuyện ‘khoán Vĩnh Phú’ lên vậy? Ông điềm tĩnh trả lời tôi rằng có
lẽ lúc bấy giờ nhận thức của mình không bắt kịp thực tế, trong khi những
thông tin được báo cáo lên lại không chính xác” (537).
Ông Trần Phương cho rằng: “Trường Chinh đổi mới như thế là quá chậm,
sau hai mươi lăm năm thôi chức tổng bí thư, có thời gian nghiên cứu hơn,
nhưng cũng phải tới gần cuối đời, ông mới giác ngộ được. Nếu khi giải
phóng miền Nam mà Trường Chinh cũng nhìn được như Lê Duẩn thì tình hình
đã khác. Khi đó, Lê Duẩn nhận ra không thể áp dụng chính sách kinh tế ở
miền Nam giống như những gì đã làm ở miền Bắc. Nhưng nhìn qua nhìn lại
không có ai đồng tình, Trường Chinh thì im lặng”. Ông Trường Chinh không
chỉ bỏ qua cơ hội sau năm 1975. Cuộc cải cách lần thứ nhất ở Hội nghị
Trung ương 6, khóa IV năm 1979, cũng không có ông.
Nghị quyết Trung ương 6 năm 1979, cho dù đã kích thích sự “bung ra” ở
nhiều nơi nhưng cũng chỉ là một “tháo gỡ” nửa vời thay vì thay đổi trên
nền tảng tư duy, nên từ sau Đại hội V, khi tình hình tiếp tục khó khăn,
xu hướng quay lại đã xuất hiện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, tháng
12-1983 và Hội nghị Trung ương 6, tháng 7-1984, vẫn còn đánh giá nguyên
nhân của tình hình khó khăn là do “chậm cải tạo xã hội chủ nghĩa và cải
tạo thị trường tự do”. Tháng 1-1983, Trường Chinh vẫn ký Nghị quyết 8
của Bộ Chính trị chuyên đề về Hà Nội. Nghị quyết được nói là có thêm
những “tình tiết tăng nặng” để “Chiến dịch Z-30” tiến hành “cải tạo lần
hai”.
Tới năm 1986, Trường Chinh đã đi được một quãng đường khá dài, đã ra
khỏi “tháp ngà”, đã đến tận cơ sở để lắng nghe thay vì tin vào các báo
cáo mà ông nhận ra là dối trá. Từ năm 1982 cho đến năm 1986, trên diễn
đàn các hội nghị trung ương, Trường Chinh thẳng thắn và đầy sức thuyết
phục, đấu tranh không khoan nhượng, từng bước xác lập nền tảng lý luận
để giải thích thực tế và bắt đầu đổi mới. Thủ tướng Phan Văn Khải, khóa V
là ủy viên dự khuyết Trung ương, nhớ lại:“Khi đó, những bài phát biểu
của Trường Chinh liên tục nhận được nhiều tràng pháo tay. Ý kiến của ông
rất mới mẻ và thực sự làm thay đổi tư duy của Đảng”.
Sức khỏe của Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã đóng một vai trò quan trọng
trong những diễn biến chính trị trước Đại hội VI. Theo bà Nguyễn Thụy
Nga, người vợ thứ hai của ông Lê Duẩn: “Đầu năm 1986, những vết sẹo phổi
có từ hồi nằm Côn Đảo bị đánh bầm dập nay phát sinh nước trong phổi.
Anh đi Liên Xô điều trị… Khi từ Liên Xô trở về, anh nằm dưỡng bệnh ở
Biệt thự số 7 Hồ Tây. Tôi ra thăm, anh bắt tay tôi, bàn tay nóng hôi
hổi, môi anh đỏ mọng. Chú Hiền, bác sỹ riêng của anh nói, anh thường
xuyên sốt 38˚, 39˚ nhưng vẫn dự họp Trung ương hoặc gặp đồng chí này,
đồng chí kia để lo nội dung và nhân sự đại hội” (538).
Theo ông Việt Phương và bà Lê Thị Muội, con gái Lê Duẩn, những ngày
bệnh Lê Duẩn nằm ở Biệt thự số 7 Hồ Tây, mỗi lần nghe có ông Trường
Chinh sang là ông lại bắt dìu từ gác hai xuống phòng khách, cho dù ông
Trường Chinh đề nghị ông sẽ ngồi bên giường bệnh để nói chuyện với ông Lê
Duẩn. Trong khi đó, cứ thấy Lê Đức Thọ đến là Lê Duẩn lại “phẩy tay
đuổi đi”.
Ông Hoàng Tùng nói: “Càng về sau, ông Lê Duẩn càng nhận ra sự thao túng
của Lê Đức Thọ, đặc biệt là sự thao túng nhân sự trong Đại hội V năm
1982”. Trần Nhâm, thư ký riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp
Bộ Chính trị, cụ Duẩn đã ốm lắm nhưng vẫn dự. Ông chỉ mặt Lê Đức Thọ:
“Có phải có những trung ương ủy viên anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức
Thọ tái mặt. Cụ Trường Chinh cầm tay áo cụ Duẩn kéo ông ngồi xuống: “Anh
đừng làm anh em người ta sợ”. Trong một phiên họp Bộ Chính trị, ông Lê
Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Anh đừng họp Bộ Chính trị nữa”. Một thời gian
sau, Lê Đức Thọ đi họp lại, Lê Duẩn lại nói: “Tôi đã bảo anh không họp
nữa mà. Lê Đức Thọ phải ra về” (539).
Tại Hội nghị Tổ chức chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ VI, diễn ra vào
tháng 4- 1986, ông Lê Đức Thọ gián tiếp chỉ trích Lê Duẩn: “Lâu nay nói
đường lối đại thể đúng, cụ thể sai. Nói như vậy không đúng. Kế hoạch năm
năm 1976-1980 là duy ý chí, phiêu lưu. Đáng lẽ làm hai, ba năm khôi
phục rồi mới đi vào xây dựng kinh tế thì tốt hơn”. Về nhân sự, ông Lê
Đức Thọ nói: “Lãnh đạo của ta già quá, từ năm 1980 tới nay không có phê
bình và tự phê bình. Lúc Hồ Chủ tịch già không làm việc thường xuyên
nhưng phải báo cáo công việc hàng ngày với Bác. Mấy năm nay, tổng bí thư
không làm việc, anh Trường Chinh, tôi, không có phê bình. Năm năm Bộ
Chính trị không có tự phê bình và phê bình. Ủy viên Bộ Chính trị của ta
thấp nhất là sáu mươi lăm tuổi, cao nhất là tám mươi nên rất hẫng. Dư
luận nhiều nhưng cho đến nay chưa thống nhất về nhân sự. Tình hình kinh
tế phức tạp. Đồn đại anh Ba chết, tiền, giá, kẻ địch lợi dụng nhiều”.
Rồi ông Lê Đức Thọ chỉ đích danh: “Anh Trường Chinh làm tổng bí thư mười
tám năm; anh Ba làm tổng bí thư hai mươi lăm năm. Cả hai đều già trên
tám mươi tuổi. Theo tôi, điều lệ nên ghi, một người không giữ chức tổng
bí thư quá hai nhiệm kỳ” (540). Ông Lê Đức Thọ được nói còn có một nỗ lực
tái lập chức chủ tịch đảng để tăng thêm cơ hội (541).
Năm 1985, ông Trường Chinh giới thiệu Nguyễn Văn Linh vào Bộ Chính trị
lần hai. Tháng 6-1986, ông Linh được đưa ra Hà Nội giữ chỗ thường trực
Ban Bí thư, một vị trí mà khi đó ông Tố Hữu đang chờ đợi. Tại Hội nghị
Trung ương 10, chính ông Trường Chinh đã điều khiển phiên họp theo hướng
để Nguyễn Văn Linh nắm giữ cương vị này. Ông Linh bàn giao ở Thành phố
Hồ Chí Minh xong, ra tới Hà Nội ngày 1-7-1986. Ngày 10-7-1986, ông Lê
Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phiên
bất thường, chính thức bầu Trường Chinh giữ chức tổng bí thư, sau đúng
ba mươi năm gián đoạn.
Vai trò của Mikhail Gorbachev
Từ tháng 6-1986, Trường Chinh đã được giao làm trưởng Tiểu Ban Chuẩn bị
Văn kiện, nhưng công việc soạn thảo cho đến khi ấy vẫn do Tố Hữu phụ
trách (542). Khi ông Lê Duẩn mất, điều ông Trường Chinh lo lắng nhất là
“cương lĩnh”. Theo ông Đặng Xuân Kỳ: “Tôi kiến nghị, có hai việc phải
chấn chỉnh ngay: một là báo cáo chính trị, hai là vấn đề nhân sự”. Ông
Trường Chinh băn khoăn: “Thời gian còn ngắn quá”. Ông Kỳ bảo: “Nếu biết
cách tổ chức, ba tháng xong, nhưng cái khó là nhân sự”.
Ngày 13 và 14-5-1986, phát biểu tại hội nghị Bộ Chính trị, Trường Chinh
nói: “Cách nghĩ cách làm cũ đã cản trở chúng ta phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài, làm cho nhân tài bị mai một”. Nguyên nhân của tình hình đó
được ông phân tích do quan niệm phong kiến, hẹp hòi theo kiểu gia trưởng
“sống lâu lên lão làng” đã “ràng buộc, hạn chế tầm nhìn của chúng ta,
khiến ta không thấy đầy đủ vốn quýbáu đó”.
Trong bài phát biểu này, Trường Chinh cảnh báo tình trạng “chọn người
rồi mới tìm việc để ấn vào” thay vì từ nhu cầu của công việc mà chọn
người thực hiện. Lê Đức Thọ không những không đồng ý với bài phát biểu
mà còn truy hỏi gay gắt: “Ai viết cho Trường Chinh?”. Chỉ khi vấn đề được
phát biểu trước Hội nghị Trung ương 11 và được Ban Chấp hành Trung ương
bày tỏ sự đồng tình, Lê Đức Thọ mới thôi phản ứng. Theo ông Hà Nghiệp:
“Đại hội VI tuy thành công về mặt đường lối, đãthất bại về nhân sự”.
Trước khi ông Lê Duẩn mất không lâu, ngày 2-6-1986, Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Trường Chinh ký quyết định miễn nhiệm những cán bộ liên đới
trách nhiệm trong vụ Giá-Lương-Tiền. Hai trong số đó là các Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh và Trần Phương (543). Hạ tuần tháng 7-1986,
Trường Chinh quyết định thay thế nhóm biên soạn báo cáo chính trị làm
việc dưới thời Lê Duẩn, đứng đầu là Tố Hữu, Trần Quỳnh. Theo ông Việt
Phương, một thành viên trong nhóm soạn thảo văn kiện thời kỳ Tố Hữu, thì
cho tới lúc ấy, nhóm chỉ mới soạn thảo đề cương và đề cương này chưa
bao giờ được trình lên tổng bí thư vì lúc ấy tình hình sức khỏe của Lê
Duẩn đã rất xấu.
Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI được thành lập mới, gồm mười
người, tổ trưởng là Hoàng Tùng, tổ phó là Đào Duy Tùng; nhóm chuyên gia
tư vấn của ông Trường Chinh có ba người tham gia, Hà Nghiệp, Lê Văn Viện
và Trần Đức Nguyên. Lê Văn Viện khi ấy đang ở Lào, làm chuyên gia tư
vấn giúp Kay-Sỏn Phôm-Vi-Hẳn, tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Người cuối cùng được đưa vào nhóm này là Lê Xuân Tùng. Theo Việt Phương:
“Trong nhóm dự thảo Văn kiện Đại hội VI, Lê Xuân Tùng là người đóng góp
ít nhất vào việc viết ra đường lối đổi mới, nhưng về sau là người đạt
được cương vị cao nhất trong thời kỳ đổi mới: ủy viên Bộ Chínhtrị”.
Chấn chỉnh việc chuẩn bị văn kiện đại hội xong, đầu tháng 8-1986,
Trường Chinh đi Liên Xô. Đây là một chuyến đi bất thường, nhưng là lệ
thường. Các nước “xã hội chủ nghĩa anh em” mỗi khi thay đổi đường lối
hay người lãnh đạo đều phải đến “ông anh cả” Moscow trình diện. Ông
Trường Chinh ở lại Moscow một tuần, và ngày 12-8-1986, ông gặp Tổng Bí
thư Gorbachev lần đầu tiên.
Chuyến đi thứ hai của ông Trường Chinh diễn ra vào tháng 11-1986, khi
công việc chuẩn bị đại hội đã tới giai đoạn hoàn tất. Trường Chinh tới
Moscow lần này là để dự cuộc gặp các Tổng bí thư, các Bí thư Thứ nhất
các Đảng Cộng sản và các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Thực tế
là ông đi với một sứ mệnh quan trọng là tìm kiếm sự ủng hộ của Liên Xô
cho công cuộc cải cách của mình. Theo Chánh Văn phòng Trung ương Đảng
khóa V Nguyễn Khánh: “Theo lệ xưa nay, mỗi khi Đảng Cộng sản Việt Nam
đại hội thì đường lối phải được Đảng Cộng sản Liên Xôvà Trung Quốc đồng
tình. Nếu họ không đồng tình thì đường lối sẽ không thực hiện được. Lúc
bấy giờ, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc còn gay gắt nên chỉ phải đi Liên
Xô”.
Trường Chinh đến Moscow ngày 9-11-1986, cuộc gặp Gorbachev được sắp xếp
vào ngày 12-11-1986. Theo ông Hà Nghiệp: “Chúng tôi đã rất lo lắng”.
Trước ngày lên đường đi Moscow không lâu, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ
Hà Nội, ngày 19-10- 1986, Trường Chinh tuyên bố: “Chúng ta đang ở thời
kỳ quá độ, có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng
dứt khoát không thể bỏ qua sản xuất hàng hóa”. Ở thời điểm ấy, nếu
Gorbachev “bác” đường lối đổi mới của Việt Nam thì ở trong nước, Trường
Chinh chắc chắn sẽ gặp khó khăn với những người bảo thủ.
Sau khi Trường Chinh nhấn mạnh vai trò của kinh tế thị trường tại phiên
họp ngày 18-5-1986 của Bộ chính trị, ông Phạm Văn Đồng nói: “Anh thì
khi nào cũng hàng hóa”. Trường Chinh nhẹ nhàng nhấc chén trà trước mặt:
“Tôi hỏi anh, cái chén này bán ở ngoài cửa hàng không phải hàng hóa thì
là cái gì?”. Phạm Văn Đồng: “Đất nước đang nước sôi lửa bỏng mà anh lúc
nào cũng lý luận”. Trường Chinh: “Đúng là tôi đang tư duy lý luận.
Nhưng, khi nhà cháy mà chúng ta không trước hết nghĩ cách, cứ lao hết
vào lửa thì cháy hết cả nhà lẫn người” (544). Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Đỗ Mười thì không ít lần công khai dẫn lời Chủ nhiệm Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước Liên Xô Baibakov: “Chủ nghĩa xã hội là Sông Đà chứ
không phải là chợ Đồng Xuân”.
Tháp tùng chính thức Trường Chinh tới Moscow có Hà Nghiệp, Trần Nhâm và
Chánh Văn phòng Nguyễn Khánh. Giáo sư Dương Phú Hiệp cũng có mặt.
ÔngDương Phú Hiệp kể: Theo lịch, cuộc gặp Gorbatchev sẽ diễn ra lúc ba
giờ chiều. Một giờ, ông Trường Chinh cho gọi chúng tôi sang trao đổi.
Trường Chinh tỏ ra lo lắng.
Mọi lo lắng hóa ra lại không cần thiết. Theo Hà Nghiệp thì cuộc gặp
Gorbachev diễn ra suôn sẻ. Gorbachev đánh giá những dự định cải cách của
Việt Nam là sáng tạo, ông đồng ý với những đề nghị của Trường Chinh và
nhận xét: “Có những điều các đồng chí còn đi xa hơn cả chúng tôi”.
Gorbachev nói điều đó không chỉ để làm vui lòng Trường Chinh. Trong khi
Việt Nam bắt đầu công nhận “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”, thì một
tuần sau, vào ngày 21-11-1986, Xô Viết Tối Cao Liên Xô, trong một nỗ lực
cải cách, chỉ đưa ra được luật cho phép lập các “xưởng cá nhân và gia
đình”, theo đó người dân chỉ được sản xuất “dựa vào chính sức mình và
của những người trong gia đình”.
Ngày 28-7-1986, khi tới thăm vùng Viễn Đông Liên Xô, Gorbachev tỏ ra
quan tâm tới Việt Nam khi tuyên bố: “Mong muốn biên giới Việt – Trung
trở thành một biên giới hòa bình, láng giềng và thân thiện”. Cũng trong
chuyến đi đó, Gorbachev bắt đầu đề cập tới cải tổ. Ngày 31-7-1986, ông
tuyên bố ở Vladivostock: “ĐảngCộng sản Liên Xô và toàn thể đất nước Xô
Viết hoàn toàn hiểu rằng cần phải tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề
mà cuộc sống đặt ra ngay trong khuôn khổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa”.
Ông nhấn mạnh: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không được sống theo
lối cũ”. Báo chí Việt Nam thời gian đó bắt đầu dành nhiều tin bài để nói
về Liên Xô. Từng bước đi của Gorbachev đều được báo chí Việt Nam, đặc
biệt là tờ Tuổi Trẻ, tường thuật (545).
Cho dù đổi mới ở Việt Nam là một tiến trình diễn ra với sự hối thúc từ
bên trong, nhưng sự thay đổi của Liên Xô đã đóng một vai trò quan trọng.
Cái chết của Brezhnev vào ngày 10-11-1982 đã chấm dứt kỷ nguyên trì trệ
kéo dài suốt mười tám năm kể từ khi Brezhnev ngồi lên ghế tổng bí thư
Liên Xô. Người kế vị ông, Andropov, thì nằm trên giường bệnh nhiều tháng
trước khi qua đời trong thời gian ở ngôi tổng bí thư mười lăm tháng.
Người kế nhiệm Andropov chưa phải là Mikhail Gorbachev như ông ta muốn
mà là một ủy viên Bộ Chính trị ốm yếu khác:Chernenko. Cái chết của
Chernenko sau đó mười ba tháng đã đưa Gorbachev lên vị trí tổng bí thư.
Ngày 11-3-1985, ngày Gorbachev nhậm chức, đã đánh dấu một kỷ nguyên mới
của lịch sử thế giới (546).
Trường Chinh từ Moscow trở về, tưởng mọi chuyện đều trôi chảy. Nhưng
khi bắt đầu đại hội, các đại biểu đã rất hoang mang. Trần Quỳnh, sau khi
cùng Võ Chí Công đến Hungary dự cuộc họp của Hội đồng Tương trợ Kinh tế
về, nói rằng: “Thủ tướng Liên Xô nói Liên Xô không tán thành Việt Nam
đi theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội thị trường”. Nhiều người nghe Trần
Quỳnh tỏ ra rất sợ; hầu hết đại biểu đều đã học qua Nguyễn Ái Quốc, đều
biết số phận của Tiệp Khắc khi dám qua mặt Liên Xô làm “chủ nghĩa xã
hội thị trường”.
Nhưng, theo Giáo sư Dương Phú Hiệp, Trường Chinh là một người làm việc
hết sức chặt chẽ. Ông hỏi văn phòng: “Anh Trần Quỳnh nói có kèm theo văn
bản không?”. Văn phòng trả lời “không”. Ông nói: “Thế thì không được.
Tôi có văn bản. Tôi và Gorbachev có ký chung một văn bản nhất trí với
nhau đây”. Biên bản được phát ra, những người ủng hộ Trường Chinh mới
thở phào nhẹ nhõm khi thấy “Liên Xô không ngăn cản ta đổi mới”. Khi ấy,
Trường Chinh mới nhắc lại bài viết của viện trưởng Viện Chính trị Kinh
tế Thế giới mà Gorbachev đã rất thích: “Ở Liên Xô cũng có những kẻ hay
dọa thế” (547).
Tuyên ngôn đổi mới
Đó là những ngày sôi động. Sau khi Trường Chinh nhận chức tổng bí thư,
ông cùng Hoàng Tùng, tổ trưởng Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI,
và các thành viên của Tổ Biên tập, xuống nhà nghỉ Vạn Hoa, tòa lâu đài ở
Đồ Sơn, nơi mà Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng thai nghén Nghị quyết Đại
hội IV. Tại đây, theo ông Hoàng Tùng: “Chúng tôi lần lượt trả lời hai
mươi câu hỏi mà tình hình đặt ra và quán triệt tinh thần của báo cáo
chính trị chỉ trong hai chữ: đổi mới”.
Tổ Biên tập sau đó làm việc chính ở Hồ Tây. Mỗi phần của báo cáo được
phân cho một nhóm biên soạn, Trường Chinh trực tiếp đọc và sửa. Khi đánh
giá những sai lầm sau 1975, theo ông Đặng Xuân Kỳ: tôi đề nghị ghi rõ
sai lầm của ta là sai lầm về đường lối chứ không chỉ chủ trương chính
sách lớn. Ông Lê Phước Thọ cũng đề nghị: “Đảng ta trước sau phải thừa
nhận thời kỳ đó là sai lầm về đường lối”. Nhưng cha tôi nói: “Anh Ba vừa
mới mất, nói sai lầm đường lối là đánh giá tổng bí thư. Cũng phải coi
hoàn cảnh lịch sử lúc đó để đánh giá như thế nào là vừa mức”. Tuy nhiên,
trước áp lực “nhìn thẳng vào sự thật”, Trường Chinh cũng đã phải tự tay
ghi vào văn kiện: “Trong nhiều năm qua, Đảng đã phạm những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn”. Ngày 19-10-1986,
phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, Trường Chinh phân tích
thêm: “Đó là sai lầm tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, làm trái quy luật
khách quan… khi đã mắc sai lầm lại bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa
chữa”.
Tổ biên tập phân công Phan Diễn viết “Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh
tế”, Hà Đăng viết phần “Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần”, Trần
Đức Nguyên viết “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”. Với sự thận trọng
truyền thống, từng vấn đề một,Trường Chinh đều cho chuẩn bị kỹ, đưa ra
Bộ Chính trị thảo luận rồi thông qua từng phần trước khi đưa vào “Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội” (548).
Thế nhưng, theo ông Trần Đức Nguyên: “Một buổi sáng sát ngày đại hội,
tôi vừa tới nơi làm việc của Tổ biên tập ở Hồ Tây thì được anh Đào Duy
Tùng chuyển cho hơn mười điểm mà các anh ủy viên Bộ Chính trị trong
Chính phủ (gồm Phạm VănĐồng, Đỗ Mười, Võ Chí Công) thấy cần sửa. Tôi xem
ngay và sau đó gọi điện thoại cho anh Năng, thư ký của anh Tô (Phạm Văn
Đồng), nhờ báo cáo với anh Tô cho tôi được trình bày lại, vì nếu sửa
văn kiện theo ý bên chính phủ thì khác với kết luậncủa Bộ Chính trị về
ba quan điểm đã bàn. Chỉ ít phút sau, tôi được anh Năng gọi điện lại
truyền đạt ý kiến anh Tô là viết như kết luận của Bộ Chính trị”.
Sau khi tạo được sự thống nhất trong nội bộ, Tổng Bí thư Trường Chinh
đã chọn Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội để công bố với nhân dân. Ngày
19-10-1986, tại Hà Nội, ông phát biểu: “Đối với cộng đồng các nước xã
hội chủ nghĩa, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời
đại, đáp ứng những nhu cầu chính đáng và ngày càng cao của nhân dân. Đối
với nước ta, đổi mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan
trọng sống còn. Yêu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nước ta, vừa phù
hợp với xu thế đổi mới của thời đại”. Bài phát biểu được các phương
tiện truyền thông chính thức trích dẫn ngay trong ngày, ngay sau đó nó
được đón nhận như một Tuyên Ngôn Đổi Mới.
Bàn tay Lê Đức Thọ
Trước Đại hội VI, theo ông Hoàng Tùng: “Lê Đức Thọ không thèm quan tâm
đến báo cáo chính trị mà tập trung những nỗ lực cuối cùng để cấy nhân sự
vào nhiệm kỳ kế tiếp”. Có thể nói, chưa bao giờ bản lĩnh Lê Đức Thọ thể
hiện kiên nhẫn và sắt đá như giai đoạn này – giai đoạn mà uy tín của
ông xuống đến mức những người thân tín nhất của ông lần lượt bị “phế
truất” thông qua lá phiếu bầu từ các đại hội địa phương và ngành, đặc
biệt là từ quân đội.
Đúng như Lê Đức Thọ nhận xét trong Hội nghị Công tác Tổ chức, tháng
4-1986: “Đời sống khó khăn gây nhiều chuyện tiêu cực, kể cả quân đội
cũng tiêu cực ghê gớm”. Ông Thọ thừa nhận: “Năm mươi sáu năm nay lúc này
phẩm chất trong Đảng ta là sa sút nhất. Trong Đảng hình thành một tầng
lớp đặc quyền, đặc lợi, nên không muốn rời chỗ đứng của mình vì nếu rời
đi thì mất nhiều quyền lợi. Có người thắc mắc, nghỉ hưu chết có được
quốc tang không? Được mấy vòng hoa khi chết, đem nhiều vòng hoa để biết
người chết cách mạng to hay nhỏ, rồi chôn ở nghĩatrang nào?”. Lê Đức Thọ
đã nói đến những tiêu cực này như một người ngoài cuộc. Thế nhưng, từng
vị chỉ huy quân đội biết rõ nguyên nhân đến từ đâu.
Sự kiện Võ Nguyên Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ theo thứ bậc trong Bộ
Chính trị sau Đại hội IV đã khiến các tướng lĩnh cảm thấy bị xúc phạm.
Liền sau đó là sự ra đi của Tướng Trần Văn Trà. Người thay thế Đại tướng
Võ Nguyên Giáp là Văn Tiến Dũng, một vị tướng có nhiều đóng góp. Tuy
nhiên, Tướng Dũng đã đánh mất khá nhiều uy tín của mình khi cho xuất bản
cuốn hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân, gần như bỏ qua vai trò của Tướng Giáp
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 13-10-1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Toàn Quân IV, diễn ra tại Hà
Nội. Ngay trong lễ khai mạc, các đại biểu đã bày tỏ thái độ. Đại hội,
trong khi chỉ dành vài tràng vỗ tay lẹt đẹt cho Đại tướng Văn Tiến Dũng,
đã nhất loạt đứng lên vỗ tay như sấm khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước
vào hội trường. Tướng Giáp chỉ là một đại biểu được mời dự, nhưng đã
được quân đội đón chào bằng cả những tiếng hoan hô và nước mắt. Những
tiêu cực trong quân đội, tình trạng thiếu thốn, khổ sở của người lính
trên các chiến trường được các tướng lĩnh phê phán gay gắt. Tham luận
của Thiếu tướng Lê Phi Long, người vừa trực tiếp đốc chiến trên chiến
trường Vị Xuyên trở về, mô tả đời sống khó khăn, chết chóc hàng ngày của
người lính trên
biên giới Việt-Trung; đối lập với tình trạng lợi dụng phương tiện quân
sự buôn lậu, thu vén cá nhân của gia đình một vài tướng lĩnh.
Ngày 18-10-1986, đại hội đã “cách chức” hai đại tướng Chu Huy Mân và
Văn Tiến Dũng bằng cách gạch tên hai nhân vật cao nhất của quân đội ra
khỏi danh sách bảy mươi mốt đại biểu toàn quân đi dự Đại hội Đảng Toàn
Quốc. Duy nhất chỉ có hai ý kiến bảo vệ Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân.
Một trong hai người đó là Tướng Lê Ngọc Hiền, phó tổng tham mưu trưởng.
Tướng Hiền đã bị phản đối quyết liệt khi đề nghị đại hội bầu cử lại.
Do Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân đang là ủy viên Bộ Chính trị khóa V nên
theo Điều lệ Đảng, đương nhiên có mặt tại Đại hội VI. Tuy nhiên, cả hai
vị đã không còn uy tín và không đủ điều kiện để được giới thiệu tiếp
vào Ban Chấp hành Trung ương. Đại tướng Hoàng Văn Thái thì cũng vừa chết
khá đột ngột ngày 2-7-1986.
Trong quân đội, người được coi sẽ ở vào vị trị kế tiếp là Đại tướng Lê
Trọng Tấn (549).Tuy nhiên, một tháng là thời gian đủ dài để Trưởng Ban Tổ
chức Lê Đức Thọ chuẩn bị. Ngày 5-12-1986, khi Đại tướng Lê Đức Anh từ
Campuchia về Nhà khách T66 của Bộ quốc phòng, khi đại biểu từ khắp các
tỉnh thành trong cả nước đã tập trung về Hà Nội để dự đại hội, Tướng Lê
Trọng Tấn từ một cuộc họp ở Trung ương đi thẳng đến số 6 Nguyễn Cảnh
Chân gặp Lê Đức Thọ. Không ai biết rõ những gì đã xảy ra trong cuộc gặp
chóng vánh này. Từ Nguyễn Cảnh Chân, Tướng Tấn lên xe về nhà riêng, 36C
Lý Nam Đế. Ở nhà, Tướng Lê Ngọc Hiền đang chờ ông về cùng ăn cơm.
Tướng Lê Ngọc Hiền là em vợ của Tướng Tấn, nhưng anh em có những bất
đồng vì ông Hiền, trước đó, “phù thịnh”, đứng hẳn về phía Văn Tiến Dũng,
Chu Huy Mân. Giữa Lê Trọng Tấn và Lê Ngọc Hiền có nói với nhau vài câu
ngắn. Bỗng nhiên,Tướng Tấn gục xuống bàn. Bà Lê Thị Minh Sơn, phu nhân
Đại tướng Lê Trọng Tấn từ nhà dưới chạy lên. Tướng Giáp từ 30 Hoàng
Diệu, chạy đến đầu tiên. Người thứ hai là Tướng Đinh Đức Thiện. Trong
khi Tướng Giáp cắn chặt răng, đau đớn, Tướng Đinh Đức Thiện, em ruột Lê
Đức Thọ kêu lên: “Tấn ơi, đứa nào hại mày?”. Khi được dìu lên giường,
Tướng Tấn chỉ kịp tháo chiếc đồng hồ Titoni mà ông đã đeo cả đời, đưa
cho cháu nội trai là Lê Đông Giang, dặn: “Con cố trưởng thành”.
Ngay lập tức, ông được đưa ra khỏi nhà. Đến đêm, gia đình được thông
báo là ông đã mất. Mãi tới sau ngày 7-12-1986, ngày tang lễ của ông, các
báo mới đăng thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương: “Đại tướng Lê Trọng
Tấn từ trần hồi 18 giờ 50 phút ngày 5-12-1986, thọ bảy mươi hai tuổi,
sau một cơn đau cấp tính vì đồng chí đã mắc bệnh tim mạch nặng từ lâu”.
Hiếm có một cáo phó nào lại phải “vòng vo” như vậy về nguyên nhân của
một cái chết và điều này càng làm tăngthêm hoài nghi.
Khi Tướng Lê Trọng Tấn mất, Lê Đức Thọ vừa là người phụ trách công tác
tổ chức, vừa phụ trách Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương, cơ quan quyết
định tới từng viên thuốc của các nhà lãnh đạo. Cái chết của Đại tướng Lê
Trọng Tấn ngay bên thềm Đại hội Đảng, cũng như cái chết trước đó của
Đại tướng Hoàng Văn Thái, rất có thể chỉ là do tuổi tác và bệnh tật như
“thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương”, nhưng lịch sử phi chính thống
đã xếp những cái chết này vào hàng “nghi án”.
Hơn một tháng sau cái chết của Tướng Lê Trọng Tấn, ngày 20-1-1987,
trong một chuyến đi săn, khi ông Đinh Đức Thiện lấy khẩu súng từ trong
xe ra thì đạn nổ, viên đạn xuyên từ cằm lên đỉnh đầu, đục thủng trần xe.
Vị tướng đã xông pha biết bao chiến trường ấy cuối cùng đã chết vì
“súng bị cướp cò”.
Ở hành lang Đại hội Đảng, các đại biểu xì xầm, nhưng cái chết đột ngột
của Tướng Lê Trọng Tấn, người lẽ ra sẽ giữ chức bộ trưởng quốc phòng sau
đại hội này, đã không được công khai nói đến. Cho đến lúc đó, công tác
nhân sự vẫn được ông Lê Đức Thọ kiểm soát gần như tuyệt đối. Quy trình
công tác cán bộ của Quốc tế III vốn đã có vấn đề lại càng trở nên “quái
gở”, như nhận xét của ông Việt Phương, sau khi mang thêm dấu ấn cá nhân
của những con người như Stalin, Mao Trạch Đông, Beria, Khang Sinh, và
được Lê Đức Thọ mang về Việt Nam, và theo Việt Phương, trở thành “một
cách làm sai hỏng đã được quy tắc hóa”.
Theo quy trình này, nhân sự của nhiệm kỳ mới, về lý là do đại hội bầu,
nhưng danh sách đưa ra để đại hội bầu với một số lượng sít sao lại do
Ban Chấp hành Trung ương khóa cũ, tức là những người sắp rời nhiệm sở,
đề nghị. Nếu có ai đó được đại hội đề nghị mà Ban Chấp hành Trung ương
không tán thành thì chính họ sẽ được Tiểu Ban Nhân sự yêu cầu “tự nguyện
rút”. Cũng có nhiều trường hợp, người được đề cử không rút, và mỗi đại
hội, Tiểu Ban Nhân sự đều nhân nhượng đưa vào danh sách bầu cử một số
ứng cử viên. Nhưng lịch sử các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ
khi cầm quyền, hầu như không có ứng cử viên nào đắc cử trung ương nếu
như không nằm trong danh sách chính thức được đề cử bởi Ban Chấp hành
cũ. Nói là Ban Chấp hành nhưng, người đóng vai trò quyết định vẫn là Lê
Đức Thọ.
Ông Việt Phương cho rằng cả Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đều phó thác toàn
bộ công tác nhân sự cho Lê Đức Thọ. Trường Chinh tuy có quan tâm nhưng
ông lại chỉ thường chú trọng các vấn đề nguyên tắc. Ông Việt Phương xác
nhận: “Những năm cuối đời, anh Lê Duẩn ác cảm ra mặt bởi sự lộng quyền
của Lê Đức Thọ trong công tác cán bộ. Ông nhiều lần nói với nhóm giúp
việc chúng tôi: Ban Chấp hành Trung ương có 150 người, may ra tôi chỉ
biết hai mươi người, còn lại do anh Thọ sắp xếp. Tuy rằng anh ấy có báo cáo, nhưng rồi Bộ Chính trị, Trung ương cũng chủ
yếu quyết định theo trình bày của anh ấy”. Cũng theo Việt Phương, chính
Hồ Chí Minh cũng từng phải than rằng: “Công tác cán bộ của ta đều do
chú Thọ cả. Chú thích ai thì chú báo cáo tốt, ghét ai báo cáo xấu, chứ
Bộ Chính trị có biết hết đâu”.
Trong suốt ba mươi hai năm làm thủ tướng, cứ mỗi nhiệm kỳ, ông Phạm Văn
Đồng lại “trình quốc hội” một danh sách chính phủ mới. Bản danh sách ấy
khôngphải của ông Phạm Văn Đồng mà là của ông Lê Đức Thọ, cả về thành
phần lẫn văn vẻ. Theo ông Việt Phương: “Trước mỗi lần đọc, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng lại rị mọ ngồi sửa lại chữ nghĩa trong bản danh sách nội
các trình Quốc hội phê chuẩn. Ông Phạm Văn Đồng sửa vì ông là một người
trí thức thận trọng chữ nghĩa, ông không thể đọc trước Quốc hội một văn
bản mà ông than: họ viết câu bất thành cú. Tuy nhiên, ông chỉ có thể
chữa lại ngữ pháp, chính tả, chứ nội dung của nó thì thủ tướng cũng
không có quyền thay đổi”. Nhiều nhân vật, cho đến khi được ông Lê Đức
Thọ đưa lên làm “thành viên chính phủ”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chưa hề
gặp mặt lần nào (550).
Nhân sự cho Đại hội VI vẫn do Lê Đức Thọ điều khiển cả về quy trình và
con người cụ thể. Theo người kế nhiệm của ông Thọ, ông Nguyễn Đức Tâm:
“Trong quá trình chuẩn bị, anh Thọ luôn nhắc nhở chúng tôi phải chú ý
phương châm: thận trọng, dân chủ. Trong từng trường hợp một, với cương
vị là trưởng Ban Nhân sự Đại hội, anh Thọ đều bố trí thời gian nghe một
cách chăm chú và hỏi lại cặn kẽ những chi tiết còn chưa thật rõ” (551). Tuy
nhiên, giữa những lời dặn dò và cách mà ông Lê Đức Thọ làm nhân sự,
theo trải nghiệm của nhiều ủy viên trung ương là rất khác nhau và có khi
vô cùng “hình sự” (552).
Đối với các trường hợp được giới thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông
Nguyễn Đức Tâm: “Anh Thọ càng thận trọng xét đi xét lại kỹ lưỡng, báo
cáo Bộ Chính trị rồi trao đổi lại với từng người một, cứ như vậy cho đến
khi có sự nhất trí trong Bộ Chính trị rồi mới giới thiệu ra trung ương.
Đến Đại hội VI về cơ bản cũng làm theo phương pháp trên, nhưng đặc biệt
ở đại hội này, việc lựa chọn tổng bí thư gặp khó khăn nhất. Qua nhiều
lần trao đổi riêng với từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư
vẫn chưa nhất trí” (553).
Phút 89
Chính vì nhân sự chủ chốt chưa nhất trí được trong Bộ Chính trị mà ở
hai kỳ hội nghị trung ương – Hội nghị 11, họp từ 17-25 tháng 11-1986;
Hội nghị 12, họp trước và trong khi bắt đầu “Đại hội Nội bộ”, từ
5-12-1986 – nói là để “bàn nhân sự”, nhưng theo ông Lê Văn Triết, khi ấy
là ủy viên trung ương dự khuyết, các cuộc thảo luận ở trung ương chỉ
bàn về nguyên tắc chứ không được bàn về nhân sự cụ thể.
Việc không để các ủy viên trung ương và các đại biểu thảo luận nhân sự
cụ thể đã tạo ra một khoảng trống ở đại hội. Trước khi về Hà Nội, các
đoàn đại biểu, đặc biệt là các đại biểu miền Nam, những người hiểu rõ
Nguyễn Văn Linh và đang kỳ vọng to lớn vào Trường Chinh đã có một cuộc
vận động để Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư khóa VI. Theo ông Trần
Nhâm, thoạt đầu, ông Trường Chinh nói trong Bộ Chính trị: “Tuổi tôi lớn
rồi. Tôi xin thôi”. Nhưng về sau, có lẽ ý thức trước sứ mệnh mà các
đảng viên muốn giao phó cho ông và khó chịu trước cách làm của Lê Đức
Thọ, ông Trường Chinh giữ im lặng.
Lê Đức Thọ đủ kinh nghiệm để thấy vào thời điểm ấy, ông không còn uy
tín để tìm kiếm cơ hội cuối cùng cho mình (554), nhưng vẫn rất “thao lược’
để cài cắm trong bộ máy mới nhân sự của mình. Ông Trần Nhâm cho rằng
việc không đưa nhân sự cụ thể ra thảo luận công khai là “động cơ cá
nhân” của ông Lê Đức Thọ. Trong Đại hội Nội bộ, có hơn 900 đại biểu
trong số 1.129 đại biểu về dự Đại hội VI ghi vào phiếu thăm dò đề nghị
ông Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư. Các đoàn đại biểu, đặc biệt
là các đoàn từ miền Nam ra liên tục xin gặp Trường Chinh để thuyết phục.
Theo lịch Đại hội Nội bộ, sáng ngày 13-12-1986, các đại biểu tập trung ở
Hội trường Ba Đình. Nhưng, chờ mãi tới chín giờ, Ban Tổ chức mới thông
báo: “Mời đại biểu về nghỉ. Chiều nay ba giờ lên hội trường để thống
nhất nhân sự kết thúc đạihội trù bị”. Vài giờ trước đó, theo ông Trần
Nhâm: Tôi đến số 3 Nguyễn Cảnh Chân, nhà riêng Tổng Bí thư Trường Chinh,
lúc sáu giờ. Sáu giờ ba mươi, Chánh Văn phòng Trung ương Nguyễn Khánh
tới hỏi: “Cụ dậy chưa?”. Tôi bảo: “Đêm qua họp Bộ Chính trị khuya, giờ
cụ chưa dậy”. Nguyễn Khánh về, tới 7 giờ 30 thì “một lô một lốc kéo tới”,
gồm Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đức Tâm, Võ Chí Công.
Lê Đức Thọ ép ông ký vào lá đơn “xin không ứng cử”. Khi ông Trường Chinh
chưa kịp trả lời, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Nội vụ
Phạm Hùng nói: “Anh không rút thì rất căng” (555). Ông Trường Chinh đã
phải gật đầu, nhưng ông đã không ký vào lá đơn “xin rút” do Chánh Văn
phòng Trung ương Nguyễn Khánh chuẩn bị.
Ba giờ chiều ngày 13-12-1986, các đại biểu lại lục tục lên hội trường,
Phạm Hùng, người có thâm niên trong Bộ Chính trị chỉ sau ba vị trưởng
lão sắp rời chính trường, thông báo với đại hội các vị Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đã ‘xin rút tên” rồi Phạm Hùng đọc bản “tuyên
dương công trạng to lớn” của “ba cụ” (556). Xếp theo thứ bậc trong Đảng thì
Phạm Hùng sẽ là nhân vật số một còn tham gia Ban Chấp hành Trung ương.
Ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị năm 1956, khi ông Nguyễn Văn Linh
chưa là trung ương ủy viên. Từ năm 1967-1975, ông là bí thư Trung ương
Cục miền Nam trong khi ông Linh là phó. Nhưng lúc ấy, những nhân vật
mạnh nhất trong Đảng đều vận động cho Nguyễn Văn Linh. Ông Nguyễn Đức
Tâm kể: “Anh Thọ vẫn kiên trì giữ ý kiến để anh Nguyễn Văn Linh làm tổng
bí thư” (557). Ông Hoàng Tùng nhận xét: “Phạm Hùng là người nghiên cứu
kinh tế không sâu nên ít đưa ra sáng kiến. Trong thời gian làm ‘phó’,
Phạm Hùng cũng không phải là một người mềm mỏng với cả ông Phạm Văn
Đồng”.
Ông Đồng vốn có cảm tình hơn với Nguyễn Văn Linh vì trong thập niên
1930 khi cùng ở tù Côn Đảo với nhau, Nguyễn Văn Linh – khi ấy mới chỉ là
một cậu thiếu niên mười sáu tuổi – say mê đọc những tài liệu về chủ
nghĩa Marx-Lenin do Phạm Văn Đồng dạy và dịch từ tiếng Pháp. Ngày
13-11-1986 khi ở Viên Chăn dự Đại hội Đại biểu Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, trước các nhà lãnh đạo các “đảng anh em”,Phạm Văn Đồng đã cố gắng
giới thiệu Nguyễn Văn Linh như một thế hệ lãnh đạo kế tục ông thay vì
chỉ tháp tùng trong chuyến đi đó.
Vào giờ chót, như một lá phiếu bỏ trước cho Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn
Đồng đã chuyển bài phát biểu khai mạc Đại hội VI mà Hội nghị Trung ương
11 đã giao cho ông và đã được người giúp việc của ông là Việt Phương
viết cho Nguyễn Văn Linh. Theo ông Việt Phương, Nguyễn Văn Linh đã chỉ
sửa một vài từ có tính “nhân xưng” rồi đọc trong phiên khai mạc Đại hội
Nội bộ ngày 5-12. Ông Linh còn diễn đọc lại bài này trong phiên khai mạc
Đại hội Công khai vào ngày 15-12-1986. Bài phát biểu về sau đã góp phần
giúp báo chí gọi Nguyễn Văn Linh là tổng bí thư đổi mới.
***
Chú thích chương 10
(510) Đặng Phong, 2009, trang 66.
(511) Nhân hai sự kiện: Tháng 7-1980, phi công Phạm Tuân được Liên Xô đưa
vào vũ trụ trong một chuyến bay cùng với đại tá người Nga Gorbatko theo
chương trình intercosmos; tháng 10-1980, nghệ sỹ Đặng Thái Sơn đoạt
giải nhất cuộc thi Piano Quốc tế Frédéric Chopin. Với Phạm Tuân thì dân
chúng dễ dàng nhận thức ra vấn đề, nếu như truyền thông suốt ngày nói về
“niềm tự hào dân tộc” thì người dân lại coi đó là một trường hợp “quá
giang”. Sự hờ hững này được lột tả trong hai câu ca dao hiện đại: “Bo bo
còn phải độn mì/ Mi lên vũ trụ làm gì hở Tuân”. Trường hợp của nghệ sỹ
Đặng Thái Sơn thì khác.
Khi ấy, Sơn đang học tại nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô. Thành tích của
anh thật đáng để ngợi ca (Báo chí Việt Nam lúc đó hoàn toàn không biết
sự kiện hai vị giám khảo Martha Argerich và Nikita Magaloff đã bỏ Hội
đồng Giám khảo cuộc thi vì thí sinh mà theo họ là tài năng nhất, Ivo
Pogorelich, không lọt vào vòng chung kết do bị một giám khảo người Nga
cho điểm 0). Nhưng sự kiện Sơn đoạt giải và được tung hô càng khiến cho
tầng lớp trí thức nhớ lại và xót thương cho thân phận cha anh, ông Đặng
Đình Hưng, một nhà thơ cách tân bị ghép vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Đặng
Thái Sơn kể: “Nhờ có Concours Chopin 1980 mà bố tôi được sống thêm mười
năm. Vì lúc ấy bố tôi bị ung thư phổi nặng, đang phải sống ở gầm cầu
thang nhà một ông bạn, không nhà không cửa mà đưa vào viện thì cũng chỉ
nằm chờ chết. Đúng hôm thi, bố tôi vào viện. Ở nhà điện sang nói tôi thi
xong phải về ngay. Lúc đó tôi tính nếu ở trong nước mà không chạy chữa
được cho bố thì tôi sẽ đưa ông ra nước ngoài. Cuối cùng, Giáo sư Tôn
Thất Tùng và Giáo sư Hoàng Đình Cầu đã chữa chạy cho bố tôi, giúp ông
sống thêm được mười năm nữa. Concours Chopin đã đem lại nhiều thay đổi
không chỉ với cuộc đời tôi mà cả gia đình tôi”.
(512) "Chinh" là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
(513) Ông Trường Chinh sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định, trong một gia đình được nói là hậu duệ của Đặng
Tất, một danh tướng thời Hậu Trần (Ngày 28-12-1975, ông Trường Chinh,
tên khai sinh là Đặng Xuân Khu đã về thắp hương cho tiên tổ Đặng Tất,
Đặng Dung ở Hà Tĩnh, là sự kiện được coi như một động thái “nhận họ” của
ông Trường Chinh). Khi còn học ở bậc Thành Chung, Trường Chinh đã tham
gia đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu; ông cũng là một trong những
người lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh và
bị đuổi học. Năm 1927, khi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Thương mại, ông
tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi trở thành một
trong những người đầu tiên vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở
Bắc kỳ. Cuối năm 1930, Trường Chinh bị bắt cùng với Nguyễn Đức Cảnh,
ông Cảnh sau đó bị kết án tử hình, còn Trường Chinh lãnh án tù mười hai
năm. Trong tù, ông vẫn làm chủ bút một tờ báo để tranh luận với các “đối
thủ Việt Nam Quốc dân Đảng”, năm 1936 ông được tha trước thời hạn. Sau
khi ra tù, ông trở thành xứ ủy viên Bắc kỳ, làm chủ bút tờ báo Cờ giải
phóng, cơ quan của xứ ủy; ngoài ra, ông còn phụ trách các tờ báo tiếng
Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin tức. Ngày
26-9-1939, sau khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, Tổng thống Pháp Lebrun
ban hành sắc lệnh "Giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp cũng như ở các thuộc
địa của Pháp” trong đó có Đông Dương. Ngay trong tháng đầu tiên sau
chiến tranh, người Pháp đã bắt khoảng 2000 đảng viên cộng sản ở Việt
Nam, riêng Nam Kỳ, hơn 800 đảng viên bị bắt. Ngày 17-1-1940, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ, rồi tiếp đó, các Ủy viên Trung ương Lê Hồng Phong, Võ
Văn Tần bị đưa vào ngục. Người tiền nhiệm của ông Cừ là Hà Huy Tập thì
đã bị người Pháp bắt từ ngày 1-5-1938. Ở Xứ ủy Bắc kỳ, Trường Chinh, Hạ
Bá Cang, Hoàng Văn Thụ, Lương Khánh Thiện chạy thoát trước khi các chiến
dịch bắt bớ diễn ra. Trung ương Đảng, lúc ấy chỉ còn đúng một ủy viên
là ông Phan Đăng Lưu, quyết định chuyển cơ quan trung ương từ Nam ra
Bắc, đồng thời bàn việc phối hợp hành động với miền Bắc và miền Trung
khi “Nam Kỳ khởi nghĩa”. Ở Hà Nội, Phan Đăng Lưu họp với Xứ ủy Bắc Kỳ,
lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, bầu bổ sung Hoàng Văn Thụ, Đặng
Xuân Khu (Trường Chinh) và Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt). Phan Đăng Lưu
thay vì nhận chức tổng bí thư đã nhất trí cùng những người dự họp cử
Trường Chinh làm quyền tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
(514) Ngày 15-1-1942, Trường Chinh viết trên báo Cứu Quốc: “Hỡi các giới
sĩ, nông, công, thương, binh! Hỡi các đoàn thể cứu quốc! Hỡi toàn thể
đồng bào mất nước Việt Nam. Đã 80 năm, Tổ quốc kính yêu mất quyền độc
lập, sa vào vòng nô lệ của giặc Pháp tham tàn. Đã 80 năm, dân tộc Việt
Nam phải mang trên trán vết quốc sỉ nhuốc nhơ mà máu đào của bao nghĩa
sĩ anh hùng tới nay vẫn chưa rửa sạch. Giờ đây, quốc sỉ tăng thêm nhục
nhã, quốc thù tăng thêm căm hờn; giờ đây, giang sơn tổ tiên lại thêm
giặc Nhật chà đạp, tấm thân trâu ngựa lại bị thêm 1 lần áp bức đọa đầy.
Nhật khai chiến với Anh, Mỹ, lôi cuốn xứ sở ta vào vòng khói lửa binh
đao. Trước cảnh nước mất, nhà tan thê thảm, Cứu Quốc, Cơ quan cổ động
của Việt Nam Độc lập Đồng minh ra đời, thống thiết kêu gọi toàn quốc
đồng bào mau hợp sức cùng lòng đánh đuổi Pháp, Nhật, rửa nhục cho non
sông, đưa Tổ quốc tới chốn vinh quang độc lập”. Ông long trọng kêu gọi:
“Cứu Quốc sẽ giải bày nỗi lầm than thống khổ của muôn dân. Cứu Quốc sẽ
nêu cao những ý muốn thiết tha của trăm họ. Cứu Quốc sẽ là người chỉ lối
trung thành cùng đồng bào cùng tiến lên trên đường giải phóng dân tộc…
Toàn thể đồng bào yêu nước hãy tận tâm ủng hộ Cứu Quốc về mọi phương
diện, hãy cương quyết tiến lên dưới bóng cờ sắc đỏ sao vàng!”.
(515) Đêm 9-3-1945, khi vừa ra khỏi rừng từ chuyến “ngự săn” ở Quảng Trị,
Hoàng đế Bảo Đại được người Nhật đưa “hồi cung” ngay. Một sỹ quan Nhật
nói với quan Ngự tiền Văn phòng Tổng lý Phạm Khắc Hòe: “Quân đội Thiên
Hoàng chỉ truất quyền của thực dân Pháp thôi, chớ không đụng chạm gì đến
Nam Triều” (Phạm Khắc Hòe, Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc,
Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2007). Hôm sau, Đại sứ Nhật ở Đông Dương
Yokoyama vào “chầu và tâu lên nhã ý muốn công nhận nền độc lập” cho
Việt Nam. Có mặt trong buổi “chầu” đó, Phạm Quỳnh nói với Đại sứ Nhật:
“Chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt
được điều đó, uy tín của chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường
bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập”. Yokohama cho rằng,
tuyên cáo độc lập để chứng tỏ chủ quyền là công việc nội bộ mà và Chính
phủ Việt Nam có “tự do tuyệt đối” để hành động. Ngày 11-3-1945, sau khi
họp Hội Đồng Cơ Mật, vua Bảo Đại ký ban dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”,
hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884. Ngày 17-3-1945, Nhà Vua
lại ra một Dụ khác tuyên bố sẽ tự tay mắm quyền trên cơ sở “dân vi quý”.
Người Nhật cũng đã đưa nhà sử học Trần Trọng Kim ra Huế sau khi ông
“nhận lời làm Thủ tướng”. Ngày 17-4-1945, nhà vua ban Đạo dụ thành lập
Chính phủ. Khi ấy, nạn đói bắt đầu lan ra phía Bắc, trong khi đường sá
thường xuyên bị máy bay và pháo hạm của Đồng Minh oanh tạc (tháng
5-1945, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh đã bị máy bay Mỹ bắn chết sau một chuyến
kiểm tra các cơ sở y tế ở Thái Bình). Mặc dù tự nhận là “dân chúng đòi
hỏi và chờ mong rất nhiều mà Chính phủ chưa làm được gì đáng kể”, những
việc mà Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm là rất ấn tượng: Yêu cầu Nhật
chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam; Thu
hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp; Ân xá toàn thể các
phạm nhân chính trị; Cho phép thành lập các đảng phái chính trị; Miễn
thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo; Thiết lập các Ủy ban tư vấn
quốc gia để soạn thảo Hiến Pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành
chính và giáo dục. Chỉ trong gần 5 tháng tại vị, Chính phủ Trần Trọng
Kim đã: Đưa chương tiếng Việt vào chương trình giáo dục thay thế tiếng
Pháp (có vai trò quan trọng của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Mỹ thuật Hoàng
Xuân Hãn); miễn thuế cho dân vô sản; hoãn nợ cho dân nghèo; đưa từ miền
Nam ra miền Trung và miền Bắc gần hai nghìn tấn gạo; đại xá cho chính
trị phạm; trừng trị một số quan lại tham nhũng; đề bạt một số quan lại
trẻ… Tháng 8-1945, Nội các Trần Trọng Kim bắt đầu tan rã dần vì sự trỗi
dậy mạnh mẽ của phong trào có vũ trang của Việt Minh.
(516) Ngày 13-8-1945, người Nhật ở Hà Nội đã gặp Việt Minh tại phủ Khâm
Sai, “mời Việt Minh tham gia chính phủ lâm thời Trần Trọng Kim” nhưng
theo ông Trần Quốc Hương, phái viên của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hà
Nội, Việt Minh đã từ chối. Ngày 14-8-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim
tuyên bố công khai “vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật”.
Trước đó, ngày 12-8, Bộ trưởng Thanh Niên của Trần Trọng Kim, Luật sư
Phan Anh, gửi điện cho các nơi nhắc nhở: “Chớ nhẹ dạ dễ bị lừa đảo vì
bọn phiến loạn và bọn tuyên truyền có mục đích gieo sự loạn lạc vô trật
tự”. Bọn “phiến loạn” mà ông Phan Anh nói trong bức điện trên đây được
hiểu là “ám chỉ Việt minh”. Ngày 17-8-1945, khi “Tổng hội viên chức Hà
Nội” tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại Nhà hát Tây để ủng hộ Chính phủ
Trần Trọng Kim, những người cộng sản đã bí mật chuẩn bị để khi cuộc
mit-tin vừa diễn ra, nhảy lên, cướp diễn đàn, biến cuộc mit-tin ủng hộ
Trần Trọng Kim thành tố cáo Chính phủ của ông là “bù nhìn”. Một cuộc
biểu tình khác được Xứ ủy quyết định sẽ tổ chức một hoạt động khác, lần
này không chỉ là “cướp biểu tình” mà là chính thức “cướp chính quyền”.
Ngày 19-8-1945, Việt Minh tràn ngập Bắc Bộ Phủ, nơi vốn là Phủ Thống sứ
và khi ấy đang là văn phòng của Khâm sai Phan Kế Toại. Người Nhật sau đó
đã triển khai một đơn vị xe tăng, hăm dọa cuộc biểu tình. Theo ông Mười
Hương, đại diện Việt Minh đã nói với viên chỉ huy quân Nhật: “Nhật
không nên can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”. Câu nói ấy
có thể chỉ tình cờ phát ra để ngăn chặn một mối đe dọa tức thời nhưng
cũng chứa đựng biết bao dự báo. Ngay lúc ấy, Quốc Dân Đảng và những
người tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim đều được gọi là “Đại Việt gian”.
Cuộc đấu tranh của những người cộng sản ở giai đoạn này chưa phải với
ngoại xâm mà với những đảng phái không cộng sản.
(517) An toàn khu.
(518) Trần Nhâm, 2005, trang 14-15.
(519) Nền kinh tế Liên Xô đã được Stalin thiết kế dựa trên nền tảng lý
thuyết mà Preobrajensky và Bukharin đã viết trong cuốn ABC của Chủ nghĩa
Cộng sản, xuất bản năm 1919. Cho dù cả Bunkharin và Preobrajensky đều
đã bị Stalin thanh trừng vào giữa thập niên 1930 nhưng cuốn sách của hai
ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban
Nha, Trung Quốc. Từ lý thuyết của Preobrajensky và Bukharin và thực tiễn
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô trong thập niên 1930, năm 1952,
Stalin viết cuốn Những Vấn Đề Kinh Tế Của Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô.
Năm 1953, các nhà lý luận Xô Viết đã dựa trên sách của Stalin để viết ra
cuốn “Sách Giáo Khoa Kinh Tế Chính Trị Học”. Cả hai cuốn đã được in tới
sáu triệu bản trong vòng hơn một năm và trở thành sách “gối đầu giường”
của cán bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, năm 1953, Nhà Xuất
bản Sự Thật đã dịch và xuất bản cuốn sách của Stalin; năm 1956, xuất bản
cuốn Sách Giáo Khoa Kinh Tế Chính Trị Học.
(520) Hệ thống được Đảng Lao động Việt Nam thiết lập từ đầu thập niên
1950 và được gọi là Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, khi dời từ trong Chiến
khu về Hà Nội. Ngay sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, ngày
22-12-1975, Ban Bí thư đã quyết định “mở rộng quy mô trường Nguyễn Ái
Quốc, theo đó Trường phải “liên tục mở các lớp nghiên cứu sinh” để đưa
số học viên từ 1.500 trong năm học 1975-1976 lên 1.800 rồi 2.000 học
viên trong hai năm kế tiếp. Năm 1976, Ban Bí thư đã ra quyết định xây
dựng trường Nguyễn Ái Quốc II tại Sài Gòn; Nguyễn Ái Quốc III tại Gia
Lâm; Nguyễn Ái Quốc IV tại Đà Nẵng và, cuối năm 1976, cho xây dựng tại
Hà Nội Trường Đảng Cao cấp Tại chức đảm bảo huấn luyện 3.000 học
viên/năm.
Ngoài ra, cũng trong năm 1976, Ban Bí thư còn ra quyết định mở rộng
Trường Tuyên huấn Trung ương ở Hà Nội và hai tháng sau đó ra quyết định
xây dựng trường Tuyên huấn Trung ương II với quy mô 1.000 học viên tại
Đà Nẵng.
(521) Như: Bộ trưởng, Thứ trưởng, Vụ trưởng, Trưởng ban các Ban của Trung
Ương, Bí thư và Chủ tịch của các tỉnh, Bí thư và Chủ tịch của các
huyện, giám đốc các xí nghiệp, Cục trưởng, Vụ trưởng, Viện trưởng...
(522) Novaya Economishéskaya Potika
(523) Theo Giáo sư Trần Nhâm, thư ký của ông Trường Chinh.
(524) Lê Duẩn nhấn mạnh: “Trong chủ nghĩa tư bản, có tiền là mua được tất
cả. Trong chủ nghĩa xã hội, đồng tiền không còn vị trí như vậy, cái
quyết định là sử dụng lao động xã hội trên cơ sở làm chủ tập thể… Giá cả
phải là giá có kế hoạch, hình thành từ trong sản xuất, chứ không phải
hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường”. Ông đòi hỏi nhà nước
phải nhanh chóng thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh những mặt
hàng lớn. Lê Duẩn nói: “Phải chống khuynh hướng muốn lấy giá thị trường
tự do làm tiêu chuẩn để định giá nhà nước, hoặc khóa tay chúng nó lại,
không cho phép tự do mua bán lương thực, nông sản, hàng công nghiệp chủ
yếu, tuyên chiến với bọn phá hoại, đầu cơ, buôn lậu, lập lại trật tự xã
hội chủ nghĩa trên thị trường”.
(525) Trường Chinh chỉ ra bài toán về giá trước Hội nghị Trung ương:
“Chúng ta đã bán vật tư với giá thấp, dưới 50% giá trị, khiến cho giá
thành tính toán bị sai lệch rất xa so với thực tế, gây thiệt hại mỗi năm
hàng trăm tỷ đồng. Với chính sách giá như vậy, hàng năm chúng ta đã để
tuột ra khỏi tay mình một khối lượng lớn vật tư nhập khẩu. Đưa một tỷ
rúp vật tư ra, ta chỉ thu về khoảng 20 tỷ đồng. Nếu tính theo tỷ giá hối
đoái 100 đồng/ rúp thì số mất lại càng lớn hơn, tới 130 tỷ đồng. Điện
là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, chỉ có Nhà nước độc quyền kinh doanh,
nhưng ta đã bán với giá rất thấp hơn hàng chục lần so với giá thành sản
xuất, làm thiệt hại hàng năm gần tới gần 40 tỷ đồng. Xăng dầu, than,
sắt thép, xi măng…tình hình cũng tương tự. Nhà nước mất mỗi năm hàng
trăm tỷ đồng. Từ cuối năm 1983 lại đây, ta mới vận động mua công trái
chưa được 2 tỷ đồng… đủ thấy mất mát của chúng ta quá lớn, không có
nguồn thu nào bù đắp được”.
(526) Theo ông Trần Việt Phương: Trường Chinh và Lê Duẩn luôn thể hiện sự
tôn trọng nhau. Tôi nghe cả hai ông kể về những ngày ở tù. Phía sau Hỏa
Lò có một con đường chạy sang tòa án. Người Pháp thường đưa tù tử hình
ra xử bắn ở đấy vào lúc 2-3 giờ sáng. Trường Chinh nói: “Có những lần
chúng tôi đau mà không khóc, nhìn cảnh người ta xử tử ngay dưới lòng
đường”. Họ là những người đã từng gắn bó nhau sinh tử. Lúc bấy giờ những
người trong Bộ Chính trị chuẩn bị phát biểu gì đều gửi cho các ủy viên
Bộ Chính trị khác để xin ý kiến. Lê Duẩn có một chỉ thị: “Nếu các ủy
viên khác có ý kiến về bài của tôi thì phải cho tôi biết, nếu anh Năm
chữa gì thì cứ thế mà chấp hành”. Ông Lê Duẩn biết ông Trường Chinh rất
thận trọng. Trường Chính biết có những điều mình và Lê Duẩn không hợp
nhau, nhưng ông không bao giờ chữa, chỉ chữa những lỗi chữ nghĩa.
(527) Nhiều tháng trước Hội nghị Trung ương 6, ông Lê Duẩn đã sử dụng
mười chuyên gia giúp việc để chắp bút bản báo cáo này. Theo ông Trần
Phương, người có tham gia thảo luận trong quá trình hình thành “mười quy
luật kinh tế” của ông Lê Duẩn, các ông Trần Phương, Trần Quỳnh, Hoàng
Tùng, Đống Ngạc là người chấp bút chính bài phát biểu nói trên của ông
Lê Duẩn.
(528) Trần Nhâm, 2005, trang 117.
(529) Sài Gòn Giải Phóng, 15-9-1985.
(530) Tuổi Trẻ, 16-9-1985.
(531) Trần Nhâm, 2005, trang 120-121.
(532) Trần Nhâm, 2005, trang 119.
(533) Sđd, trang 58-60.
(534) Tài liệu lưu trữ cá nhân của Giáo sư Trần Đình Bút.
(535) Nhà kinh tế học mà quan điểm của ông được áp dụng ở Tiệp Khắc hồi giữa thập niên 1960.
(536) Những phát biểu của Paskar và các ý kiến liên quan đến bài báo của
Giáo sư Đào Xuân Sâm trong đoạn này được trích từ biên bản họp Hội đồng
Bộ trưởng ngày 8-5-1986.
(537) Trần Nhâm, 2005, trang 270.
(538) Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 204.
(539) Theo ông Đoàn Duy Thành và Hoàng Tùng, tháng 12-1985, ông Lê Duẩn
yếu dần và thường không còn tham gia họp Bộ Chính trị, Trường Chinh xử
lý hầu hết các công việc trong Đảng. Thế nhưng, Lê Đức Thọ vẫn lên Hồ
Tây thăm và xin Lê Duẩn: “Anh ốm, sức khỏe của anh bắt đầu hạn chế, anh
giới thiệu với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương để tôi thay anh
đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ, anh chưa thay tôi
được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, Lê Đức Thọ lại đến, lần này đi
hai vợ chồng. Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê
Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi
danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến
thắng. Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”.
(540) Bản ghi phát biểu của Lê Đức Thọ tại Hội nghị.
(541) Trước Đại hội V, tháng 3-1982, Lê Đức Thọ chuẩn bị một đề án thiết
lập chế định Chủ tịch Đoàn trong Đảng, theo đó: năm vị đang giữ cương vị
cao nhất trong Đảng sẽ giữ chức chủ tịch Đảng; Lê Duẩn, nhà lãnh đạo
cao nhất sẽ giữ chức danh Chủ tịch Đoàn Chủ tịch; một trong năm vị chủ
tịch sẽ giữ chức tổng bí thư, vị trí được cho là của Lê Đức Thọ. Theo
ông Việt Phương, thư ký Tổng Bí thư Lê Duẩn, thì đấy là mô hình mô phỏng
Trung Quốc; ở Trung Quốc khi áp dụng mô hình này, Đặng Tiểu Bình, tuy
không ở trong Chủ tịch Đoàn nhưng đã giữ chức tổng bí thư, một cương vị
tuy thấp hơn nhưng có thực quyền vì xử lý thường vụ mọi vấn đề trong
Đảng. Đề án của Lê Đức Thọ đã làm cho nhiều người lo lắng: sau khi “tôn
vinh” Lê Duẩn làm chủ tịch, thực quyền sẽ thuộc về “Tổng Bí thư” Lê Đức
Thọ. Tuy nhiên, Lê Duẩn đã dập tắt ý định này khi mở đầu cuộc họp, ông
tuyên bố: “Ở Việt Nam chỉ có Bác xứng đáng làm chủ tịch Đảng. Ai muốn
làm chủ tịch thì cứ làm, tôi không dám”.
(542) Thoạt đầu, Tố Hữu được ông Lê Duẩn “bồi dưỡng” để kế nhiệm chức
Tổng bí thư, nhưng thất bại của cải cách Giá- Lương-Tiền đã đánh mất nốt
chút uy tín còn lại của một “nhà thơ đi làm kinh tế”.
(543) Tố Hữu không bị cách chức ông vẫn được đưa vào danh sách ứng cử vào
Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VI nhưng thất cử (cùng với Hoàng
Tùng).
(544) Ông Phạm Văn Đồng được những người giúp việc đánh giá là “một nhà
văn hóa hơn là một nhà kinh tế”. Ông thường tự tay soạn thảo các phát
biểu của mình rồi mới đưa cho thư ký chữa thay vì thư ký chuẩn bị như
những người khác. Theo Việt Phương: “Ông nghĩ sâu xa cân nhắc trước khi
viết ra, nói ra”. Bằng một thứ tiếng Pháp lưu loát, ông Phạm Văn Đồng
rất dễ gây cảm tình với các nhà báo và các đồng sự quốc tế. Bên trong,
với tác phong giản dị, nhân hậu, ông cũng có được sự yêu mến của cấp
dưới và công chúng.
Ông Phạm Văn Đồng sinh năm 1906 ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi. Thường được gọi là anh Tô. Sự nghiệp cách mạng của ông bắt đầu từ
phong trào bãi khóa chống Pháp của học sinh, sinh viên năm 1925, nhân
đám tang của nhà chí sỹ Phan Châu Trinh. Năm 1926, ông sang Quảng Châu
dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và gia nhập Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 7-1929, ông bị người Pháp bắt,
bị kết án mười năm tù và bị đày đi Côn Đảo. Mãi tới năm 1936, ông mới
được ra tù để rồi năm 1940, cùng Võ Nguyên Giáp, bí mật sang Trung Quốc
cùng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm
vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên giới Việt - Trung. Tại Quốc dân
Đại hội Tân trào, năm 1945, ông được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm năm
người thuộc Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.
Trong chính phủ đầu tiên của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng là bộ trưởng
tài chính và sau đó kiêm thêm chức phó trưởng Ban Thường vụ Quốc hội.
Tháng 6-1946, khi Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam từ chối đi Pháp
dự Hội nghị Fontainebleau, ông được Hồ Chí Minh cử thay Nguyễn Tường Tam
làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia hội nghị. Từ
tháng 7-1949, ông là phó thủ tướng duy nhất trong chính phủ do Hồ Chí
Minh đứng đầu, mặc dù, mãi tới Đại hội II, năm 1951, ông mới trở thành
ủy viên Bộ Chính trị. Ông Đồng là người nhận lãnh sứ mệnh lịch sử khi
được cử làm Trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève về Đông Dương,
nơi, ông ký vào bản Hiệp định chia Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc.
Từ tháng 9-1955, ông làm thủ tướng rồi chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho
đến năm 1987. Ông Phạm Văn Đồng đứng đầu chính phủ trong một giai đoạn
mà nền kinh tế vận hành dựa trên nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung. Cả
miền Bắc như một cỗ máy đã được lập trình, vai trò hình thành chính sách
gần như không đáng kể. Cho dù, ông là người ký các nghị định của chính
phủ ban hành chính sách cải tạo công thương nghiệp ở cả miền Bắc, hồi
năm 1958, và miền Nam, năm 1977, Phạm Văn Đồng chỉ là người thừa hành
chứ không phải là tác giả. Cũng có một số chính sách xuất hiện khi ông
Phạm Văn Đồng còn là thủ tướng có tác dụng tháo gỡ những khó khăn trong
sản xuất kinh doanh như: Nghị quyết Trung ương 6, khóa IV, tháng 6-1979;
Quyết định 25-CP, 21-1-1981. Nhưng, vai trò của Phạm Văn Đồng trong đổi
mới là rất mờ nhạt. Theo Hà Nghiệp, vào thời điểm ấy, xung quanh Phạm
Văn Đồng không còn người giỏi nữa. Trợ lý xuất sắc nhất của ông là Việt
Phương, sau khi xuất bản tập thơ “Cửa Mở” đã bị tách ra.
Về đời tư, ông Phạm Văn Đồng là một người không may mắn. Năm 1946, ông
lấy vợ, bà Phạm Thị Cúc, nhưng chỉ một tuần sau khi cưới, chiến tranh
bùng nổ, ông được cử làm đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ
tại Nam Trung bộ. Cuối năm 1948, bà Cúc được đưa vào với chồng. Sau
nhiều tháng đi bộ, tháng 3-1949, bà tới nơi nhưng gặp chồng chỉ được
chưa đầy tuần thì Phạm Văn Đồng lại có lệnh ra Bắc. Năm ấy bà Cúc chỉ
mới hai mươi ba tuổi. Có lẽ hoàn cảnh ấy đã tác động lớn tới tinh thần
của bà, năm 1950 bà bắt đầu bị bệnh tâm thần phân liệt. Ông Trần Việt
Phương kể: “Lúc đầu chỉ là một cơn kịch phát sau đến mức bị trầm uất,
các bác sỹ Nga và Trung Quốc đều tận tình nhưng rồi không chữa được. Một
lần, các bác sỹ nhận thấy chị Cúc rất nhớ chồng. Họ nói với tôi là nên
đưa chị về để anh chị gần nhau, hy vọng là điều ấy có thể giúp cải thiện
tình trạng bệnh tình của chị. Tôi về, nói với Phạm Văn Đồng, anh đồng
ý, chỉ nhờ tôi tìm giúp các phương tiện tránh thai. Hai ngày sau, Phạm
Văn Đồng mang trả tôi các bao cao su rồi lắc đầu: họ nhầm. Về sau, chị
Cúc được đưa về một ngôi nhà ở phố Phúc Hạo. Mỗi lần Phạm Văn Đồng ra,
anh đưa tay cho vợ, chị Cúc cũng đưa tay ra, nhưng hai bàn tay run lên
bần bật, chới với, mong muốn mà không nắm nổi tay chồng. Tôi nhận thấy
cả hai, một tỉnh, một không, đều rất đau đớn”. Ông Phạm Văn Đồng sống cô
độc như thế cho đến tận cuối đời cho dù nhiều lần, nhiều người trong
Trung ương có khuyên ông lấy vợ. Ông Việt Phương nói: “Hồ Chí Minh ủng
hộ lựa chọn này của Phạm Văn Đồng”. Bà Cúc kịp sinh cho ông một người
con trai tên là Phạm Sơn Dương trước khi bệnh tình của bà trở nên vô
phương cứu chữa.
(545) Ngày 20-9-1986, trên tờ Pravda, Gorbachev nói về “Đổi mới, làm chủ
và sáng tạo”. Ngày 1-10-1986, Gorbachev cho rằng: “Cái cũ không dễ dàng
đầu hàng, phải dũng cảm để đưa ra cái mới”. Ngày 11-10-1986, các báo
Việt Nam vừa đưa tin về cuộc gặp giữa Gorbachev và Tổng thống Mỹ Reagan
tại Iceland vừa đăng phát biểu của Gorbachev trước đó tại Đảng Khu ủy
Graxnoda: “Dân chủ như không khí, như đòn bẩy nâng cả xã hội vào công
cuộc đổi mới”.
(546) Chính những cải cách mà Gorbachev tiến hành vào tháng 2-1986 tại
Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô như glasnost (mở cửa), perestroika (cải
tổ)… đã dẫn đến chấm dứt hoàn toàn chiến tranh lạnh và làm sụp đổ căn
bản hệ thống xã hội chủ nghĩa chỉ trong một nhiệm kỳ của Gorbachev.
(547) Theo Ogomolov: “Trong cải tổ kinh tế, có một số vấn đề then chốt
mà, theo tôi, chúng ta sượng sùng lảng tránh. Đó là vấn đề thị trường
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ thị trường phần lớn được nhắc tới một
các tiêu cực”. Sau khi phát biểu này đăng trên tờ Sự Thật, nhà kinh tế
Clagoliev nói lại, cũng trên Sự Thật: “Trong tất cả các kiểu thổi phồng
của tuyên truyền tư bản xét lại thì huyền thoại về thị trường là nguy
hiểm hơn cả”.
(548) Phần chủ yếu phải viết lại trong Báo cáo Chính trị là phần kinh tế.
Ba vấn đề lớn mà Tổ Biên tập báo cáo xin ý kiến Trưởng Chinh: Đổi mới
tư duy về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khắc phục khuynh hướng ham công
nghiệp nặng và công trình lớn, chuyển hướng đầu tư và phát triển sản
xuất vào ba mục tiêu cơ bản và cấp bách để vượt qua khủng hoảng kinh tế-
xã hội là lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng - hàng xuất khẩu; Chấp
nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế cá thể và tư nhân còn
cần thiết và tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ. Kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể và kinh tế gia đình gắn
với nó hợp thành lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế; việc cải tạo các thành phần kinh tế khác là nhiệm vụ
lâu dài, gắn với yêu cầu sử dụng, phát huy khả năng của họ theo phương
châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn; Đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang
cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Lúc này, mới chấp nhận kinh tế hàng hoá và sử dụng quan hệ hàng
hoá-tiền tệ để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chưa giải thoát
được nhận thức coi kinh tế thị trường và cơ chế thị trường không dung
hợp với chủ nghĩa xã hội.
(549) Tướng Lê Trọng Tấn cùng với Tướng Hoàng Văn Thái là hai chỉ huy
quân đội đã sát cánh với Tướng Giáp suốt hai cuộc kháng chiến, cả hai
người đều có mặt tại Điện Biên Phủ. Tướng Giáp cho rằng Lê Trọng Tấn là
“một trong các vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại”. Chính Đại
Đoàn 320 của Lê Trọng Tấn đã cắm cờ trên hầm De Castries, dành chiến
thắng huy hoàng ở Điện Biên Phủ. Ba mươi mốt năm sau, cũng chính chiếc
xe tăng 390 nằm trong Cánh Quân Phía Đông của Lê Trọng Tấn đã húc đổ
cổng Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh thống nhất hai miền Nam
Bắc. Ngày 18-10-1986, tại Đại hội Đảng Toàn Quân, Lê Trọng Tấn được bầu
làm trưởng đoàn đại biểu quân đội đi dự Đại hội Đảng lần thứ VI.
(550) Ông Lữ Minh Châu kể rằng, tháng 6-1986, khi đang làm giám đốc Ngân
hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, trong một ngày, ông nhận được điện
của Ban Tổ chức Trung ương gọi ra Hà Nội. Cầm bức điện mật trong tay mà
ông không rõ là bị “triệu” bởi một việc lành hay dữ. Đến chiều, ông biết
mình trở thành tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghe Đài
Tiếng nói Việt Nam đưa tin về Quyết định bổ nhiệm ông của Bộ Chính trị.
Người mà ông Châu gặp khi ra tới Hà Nội không phải là nhân vật đứng đầu
Chính phủ của ông mà là Lê Đức Thọ. Ông Đỗ Quốc Sam cũng được nhấc từ
“ghế” Hiệu trưởng trường Đại học Xây dựng về làm Chủ nhiệm Ủy ban Xây
dựng Cơ bản Nhà nước vào tháng 6-1982 theo cách đột ngột như vậy. Ông
Sam kể lại rằng, khi ông đến dự phiên họp Chính phủ đầu tiên, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã phải hỏi: “Anh là ai? Tại sao lại ngồi ở đây?”. Vụ
trưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng, đang làm thư ký phiên họp, đã phải đỡ lời:
“Thưa, đây là anh Đỗ Quốc Sam, thành viên mới của Chính phủ ạ”.
(551) Lê Đức Thọ, Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
(552) Trích Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ: Trước Đại hội IV, anh Thọ
kêu tôi đến gặp. Ngang Sở Nông nghiệp Thành phố, ngang đường Cách mạng
Tháng Tám, có con đường đi sâu vô ruột khu phố, nơi có nhiều biệt thự do
công an quản lý.
Tôi đến một biệt thự rộng lớn, anh Thọ bảo bảo vệ cán bộ nhân viên tản
ra các biệt thự xung quanh, anh dắt tôi lên lầu, chỉ hai người ngồi bàn
ngang nhau, anh có sổ và cầm viết ghi. Anh nói: “Tôi cần hỏi anh một số
câu, để có quyết định về anh: quê anh thuộc về đảng bộ nào?”. Tôi nói,
khi Châu Văn Liêm, thường vụ Xứ ủy, chuyển từ “Thanh niên Đồng chí Hội”
sang lập “An Nam Cộng sản Đảng”, có đến công tác ở xã tôi. Anh Nhung ở
Vĩnh Long làm thầy giáo ở Ô Môn, đã được Châu Văn Liêm kết nạp vào Đảng
một lượt với Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp. Cùng lúc thành lập chi bộ Cờ
Đỏ. Ngày đầu, đảng bộ quê tôi thuộc về đảng bộ Châu Văn Liêm. Trả lời
xong câu hỏi này, thấy anh Sáu Thọ trầm ngâm. Lê Đức Thọ hỏi tiếp: “Anh
có quen biết Trần Văn Giàu không?”. Tôi nói: “Lúc nhỏ đọc báo nói về vụ
Des Champs, Pháp đưa hơn năm mươi người cộng sản bị bắt ra tòa, có viết
những câu hỏi của tòa và trả lời của Trần Văn Giàu, tôi rất thích, như:
Tòa hỏi: ‘Anh làm nghề gì?’; anh Giàu trả lời: ‘Tôi đã nói, tôi làm cách
mạng chuyên nghiệp, còn làm nghề gì nữa’. Tòa hỏi: ‘Làm sao anh đi Nga
được?’. Anh Giàu trả lời: ‘Tôi có ý chí làm cách mạng là tôi đi được’.
Sau này gặp anh Giàu tôi thuật lại, anh Giàu cười nói: ‘Trước tòa tôi
khai dóc chứ từ Pháp đi Liên Xô có gì là khó”. Sau khi xác minh thấy tôi
“không có quan hệ gì với Trần Văn Giàu”, ông Lê Đức Thọ nói: “Tôi sẽ
giới thiệu cho Đại hội, bầu anh vào Trung ương Đảng, sau khi đắc cử sẽ
rút anh đi khỏi thành phố”. Thế là ông Mười Thơ trở thành ủy viên Trung
ương khóa IV.
Đến Đại hội V, tháng 3-1982, tôi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng
giới thiệu về tỉnh Hậu Giang ứng cử đại biểu đại hội V. Tôi dự cuộc họp
Trung ương khóa IV, lần cuối, đóng góp dự thảo báo cáo Đại hội V và danh
sách đề cử trung ương ủy viên, trong danh sách đầu tiên có tên tôi.
Chiều lại, anh Sáu Thọ kêu tôi đến gặp. Tôi nói với các đồng chí trong
Tổ: “Chắc tôi phải rút ra khỏi danh sách đề cử đây”; rồi cười xách cặp
đi. Đến nhà khách của Ban Bí thư, tôi ngồi trên ghế salon cá nhân ngang
mặt với Sáu Thọ, anh biểu qua ngồi ghế salon với anh, rồi nói: “Tôi đối
với anh sao anh cũng biết, các đồng chí Bộ Chính trị găng với anh lắm,
trong cùng khóa Ban Chấp hành Trung ương mâu thuẫn nhau, sẽ ảnh hưởng
lãnh đạo chỉ đạo của Trung ương. Tôi đề nghị anh vì sự nghiệp lớn của
Đảng, anh hi sinh cho chúng tôi đưa tên anh ra khỏi danh sách giới thiệu
vào Trung Ương Khóa V. Sau Đại hội, công tác của anh ra Bắc vô Nam
thoải mái”. Tôi phát biểu: “Tôi tham gia cách mạng hồi mấy tuổi, luôn
được điều đi nơi khó, và được giao trọng trách lúc khó. Tôi không nghĩ
có thể sống đến độc lập thống nhứt. Giờ đương còn sống là lời quá sức
rồi, có gì không hi sinh được. Nếu thấy tôi ở Trung ương làm mất đoàn
kết, trở ngại cho Trung ương phát huy vai trò, tôi sẵn sàng rút tên, các
anh cứ bôi tên tôi khỏi danh sách đề cử vào Trung ương đi”. Nói xong,
tôi đứng dậy chào và về tổ họp. Đến khi họp Trung ương, danh sách giới
thiệu ra ứng cử không có tên tôi. Mười Kỷ đi gặp Lê Duẩn hỏi về chuyện
bôi tên Mười Thơ trong danh sách đề cử vào Trung ương, ông Ba Duẩn nói:
“Tôi không tán thành bôi tên Hai Văn, Mười Thơ, Năm Vận, Mười Kỷ”. Hôm
khai mạc Đại hội Đảng lần V, trên đường vào hội trường, tôi gặp Mai Chí
Thọ, anh ôm tôi rất tha thiết nói: “Trường đồ tri mã lực, cửu nhựt kiến
nhân tâm” (Đường dài mới biết ngựa hay/ Lâu ngày lòng người mới tỏ). Giờ
giải lao, anh Đinh Đức Thiện khều tôi ra sân nói: “Mầy cho tao kêu mầy
bằng mầy, vì tao lớn hơn mầy nhiều tuổi. Tao đi hết các tỉnh miền Tây,
nếu mầy như họ nói, không thể có miền Tây anh hùng như vậy. Tao nói với
ông Sáu Thọ, giải quyết cán bộ như thế, sau nầy họ sẽ đào mồ, cuốc mả
cha mẹ mình lên”.
Tôi nắm chặt hai tay anh Thiện nói: “Tôi nhận anh là anh tôi”. Cũng
trong thời gian họp, anh Hai Văn điện thoại kêu tôi đến nơi ở đoàn đại
biểu tỉnh Cửu Long gục đầu xuống bàn khóc, nước mắt chảy ướt mặt bàn.
Sau Đại hội anh Nguyễn Văn Linh gặp tôi nói: Tôi có hỏi anh Sáu Thọ về
việc bôi tên anh trong danh sách đề cử vào Trung ương, anh Sáu Thọ trả
lời: “Tôi nói với nó, nó trả lời với tôi không đầy ba phút, đứng dậy đi,
nếu nó năn nỉ tôi, tôi đã cho ở lại”. Tôi nói với anh Sáu Thọ: “Người
cộng sản chân chính không bao giờ năn nỉ đâu”. Rồi anh Linh lại nói:
“Tôi làm sao đấu tranh cho lẽ phải được, anh thấy hoàn cảnh tôi không,
trong Đại hội nầy người ta vận động không bỏ thăm cho tôi, kết quả tôi
đạt được số thăm đắc cử là may lắm”.
(553) Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
(554) Theo ông Nguyễn Đức Tâm, khi chưa thuyết phục được Bộ Chính trị
rằng ai sẽ làm tổng bí thư, ông Tâm đã hỏi Lê Đức Thọ: “Tình hình khó
khăn quá, anh nên nhận chức tổng bí thư đi, dễ thống nhất hơn?”. Lê Đức
Thọ nói: “Mình đã nhiều tuổi, sức khỏe cũng kém, để đồng chí khác làm
tốt hơn”(Bài viết của Nguyễn Đức Tâm do ông Nguyễn Đình Hương cung cấp).
(555) Thư ký của ông Trường Chinh, ông Trần Nhâm nói, Trường Chinh đã
chịu áp lực, kể cả đe dọa, để buộc phải rút lui, nhưng ông Nguyễn Khánh
thì cho rằng không có sự đe dọa.
(556) Bài phát biểu, còn được diễn đọc lại tại Đại hội Công khai vào ngày
18-12-1986, viết: “Chúng ta sắp bầu các ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương mới… Trong danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa VI,
thể theo đề nghị của đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và
đồng chí Lê Đức Thọ, Đoàn Chủ tịch Đại hội nhất trí tôn trọng quyền
không ứng cử của ba đồng chí vì tuổi cao, sức đã yếu. Cử chỉ cao đẹp của
ba đồng chí làm nổi bật truyền thống quý báu của dân tộc ta, của Đảng
ta là: Thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau và thế hệ sau kế tục trung
thành sự nghiệp của thế hệ trước”. Sau khi “long trọng truyên dương” cả
“ba đồng chí”, ông Phạm Hùng đề nghị “Đại hội trao trách nhiệm cao cả”
làm cố vấn cho cả ba bậc công thần của Đảng.
(557) Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 70.
No comments:
Post a Comment